Bản án 114/2020/HSST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 114/2020/HSST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 114/2020/HSST ngày 16 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2020/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 9 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lường Văn D - Sinh năm 1973; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: bản C, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Trình độ văn hoá: Không; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ đảng phái: Không; Con ông Lường Văn N (đã chết), con bà Lường Thị M; Bị cáo có vợ Lường Thị B và có 04 con đều đã trưởng thành.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tạm giữ, giam từ ngày 10/6/2020 cho đến nay. Có mặt.

2. Họ và tên: Lò Văn T - Sinh năm 1976; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: bản C, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ đảng phái: Không; Con ông Lò Văn T, con bà Lò Thị P (đã chết); Bị cáo có vợ là Lường Thị T và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 10/6/2020 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Hồi 11 giờ 15 phút ngày 10/6/2020 Tổ công tác Công an xã Chiềng En, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Co Tòng, xã Chiềng En, phát hiện Lường Văn D đang điều khiển xe mô tô theo hướng từ huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên về bản Co Tòng, xã Chiềng En, huyện Sông Mã có biểu hiện nghi vấn tội phạm, Tổ công tác đã ra tín hiệu yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện tại lòng bàn tay trái của D có 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa 03 cục chất bột liên kết màu trắng (D khai nhận là Heroine do Lò Văn T trú bản Co Tòng, xã Chiềng En, huyện Sông Mã đưa tiền cho D đi mua). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng, ngoài ra còn tạm giữ 01 điện thoại di động, 01 xe mô tô.

Mở rộng điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã đã triệu tập Lò Văn T đến trụ sở làm việc, T thừa nhận đã đưa tiền cho D nhờ mua ma túy hộ mục đích về cùng sử dụng.

Ngày 11/6/2020 tại Công an huyện Sông Mã đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định. Kết quả: Số bột liên kết màu trắng thu giữ có khối lượng 0,25gam, trích hết làm mẫu giám định ký hiệu D.

Tại Kết luận giám định số 960 ngày 14/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy, loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,25gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,25gam; loại Heroine”.

Ngày 17/6/2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã hoàn trả mẫu gửi giám định không sử dụng hết trong quá trình giám định ký hiệu D=0,14gam cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã.

Quá trình điều tra Lường Văn D, Lò Văn T khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 10/6/2020 D điều khiển xe mô tô đến quán của gia đình Lò Văn T để mua thẻ nạp tiền điện thoại, sau khi nạp thẻ xong, D nói với T sẽ đi mua ma túy về sử dụng nếu T muốn mua thì đưa tiền D đi mua hộ, T đồng ý và đưa cho D số tiền 200.000đ, D nhận tiền rồi điều khiển xe mô tô đi đến bản Nà Ngùa, xã Luân Giói, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Tại đây D đã vào nhà một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết hỏi mua được 01 gói Heroine với số tiền 200.000đ mà T đã đưa, rồi điều khiển xe ra về. Khi về đến bản Co Tòng, xã Chiềng En, huyện Sông Mã thì bị phát hiện bắt quả tang.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 109/CT-VKSSM ngày 15 tháng 9 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Lường Văn D và Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt Lường Văn D từ 18 - 22 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt Lò Văn T từ 16 - 20 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số ma túy và vật chứng liên quan; trả lại cho bị cáo Lường Văn D điện thoại di động.

Buộc bị cáo Lò Văn T chịu án phí hình sự; miễn án phí cho bị cáo Lường Văn Diện; tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo nhất trí với toàn bộ nội dung truy tố vủa Viện kiểm sát, thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện.

Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 11h15 ngày 10/6/2020, bắt quả tang Lường Văn D có hành vi cất giấu 01 gói nilon bên trong có chứa 03 cục màu trắng nghi là ma túy:

- Kết luận giám định số 960 ngày 14/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận số chất bột đã thu được của Lường Văn Diện.

 - Lời khai của Lò Văn T thừa nhận việc đã đưa cho Lường Văn D số tiền 200.000đ để D mua giúp ma tuý.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 10/6/2020 Lò Văn T đưa cho Lường Văn D 200.000đ mục đích đi mua ma túy về sử dụng, sau khi nhận tiền D điều khiển xe mô tô đến bản Nà Ngùa, xã Luân Giói, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên mua được của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine. Khi trên đường quay về đến khu vực bản Co Tòng, xã Chiềng En, huyện Sông Mã thì bị Công an xã Chiềng En phát hiện bắt quả tang. Số ma túy bị thu giữ có khối lượng là 0,25 gam, loại Heroine, do vậy các bị cáo phải cùng chịu trách nhiệm đối với số ma túy bị thu giữ.

Hành vi các bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tại cơ quan điều tra và phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Đối với Lường Văn D đã khai báo hành vi của Lò Văn T, nên được áp dụng thêm tình tiét giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Đối với bị cáo Lò Văn T có bố đẻ là người có công với cách mạng, đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Về vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này bị cáo Lường Văn D là người rủ rê, khởi sướng việc đi mua ma tuý và trực tiếp đi mua ma tuý; bị cáo Lò Văn T là đồng phạm đã đưa tiền cho D - Áp dụng Điều 58 BLHS khi quyết định hình phạt. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy các bị cáo tàng trữ, vai trò của các bị cáo để quyết định một mức án phù hợp với từng bị cáo nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông bán ma tuý cho Lường Văn D, do bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể nên không có căn cứ để điều tra, mở rộng vụ án.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại và các vật chứng liên quan cần cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động của Lường Văn D, do không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo. Đối với chiếc xe mô tô bị cáo D dùng làm phương tiện đi mua ma tuý, xác định được là tài sản của Lường Văn D1 (con trai bị cáo), khi bị cáo dùng xe làm phương tiện thực hiện tội phạm anh D1 không biết, ngày 03/9/2020 cơ quan điều tra đã trả lại ch anh D1 là đảm bảo theo quy định.

[8] Về án phí: Bị cáo Lường Văn D có gia đình là hộ nghèo nên được miễn án phí. Bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Lường Văn D 18 (mười tám) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 10/6/2020.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51: Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 16 (mười sáu) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 10/6/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản1 Điều 47 Bộ luật hình sự:

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 0,14gam Heroine.

 + 01 phong bì.

(các vật chứng trên được đựng trong một phong bì được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 038948).

+ 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

+ 01 mảnh nilon màu xanh.

(các vật chứng trên được đựng trong một phong bì được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 027852).

- Trả lại cho bị cáo Lường Văn D 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Itel.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/9/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí:

- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn nộp khoản tiền án phí hình sự cho bị cáo Lường Văn D.

-Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo Lò Văn T chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 29/9/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2020/HSST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:114/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về