Bản án 114/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 114/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25/9/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2019/HSST ngày 11/3/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2020/QĐXXST-HS ngày 15/9/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Bích H, sinh năm 1974; Tên gọi khác: Nguyễn Thị H; Nơi cư trú: Phan Bội C, phường Phan Bội C, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Đình L và bà: Nguyễn Thị D (đều đã chết).

Tiền án: Tại Bản án số: 179/HSST ngày 05/8/2016 của TAND quận Long Biên xử 28 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (trị giá 8.000.000 đồng). Ra trại ngày 31/7/2018 (Chưa được xóa án tích).

Nhân thân:

- Tại Bản án số: 131/HSST ngày 19/4/1993 của TAND quận Hoàn Kiếm xử 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân (trị giá 7.000.000 đồng) (Đã được xóa án tích).

- Tại Bản án số: 52/HSST ngày 31/01/1996 của TAND quận Hai Bà Trưng xử 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân (trị giá 4.380.000 đồng) (Đã được xóa án tích).

- Tại Bản án số: 1011/HSPT ngày 24/7/1996 của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao xử 42 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân (trị giá 41.500.000 đồng). Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 52/HSST ngày 31/01/1996 của TAND quận Hai Bà Trưng, buộc phải chấp hành chung hai bản án là 05 năm tù. Ra trại ngày 30/4/2000. (Đã được xóa án tích).

- Tại Bản án số: 220/HSST ngày 26/12/2005 của TAND quận cầu Giấy xử 05 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (trị giá 19.100.000 đồng). Ra trại ngày 01/9/2009. (Đã được xóa án tích).

- Tại Bản án số: 23/HSST ngày 23/3/2010 của TAND quận Thanh Xuân xử 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (trị giá 500.000 đồng). Ra trại ngày 24/12/2010. (Đã được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại trại giam số 1 Công an thành phố Hà Nội.

(Có mặt tại phiên tòa)

* Người bị hại:

- Cháu Nguyễn Văn Minh G, sinh năm 2008.

Người đại diện theo pháp luật: Chị Nguyễn Thị M (mẹ đẻ).

Trú tại: Thôn, xã La Phù, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội

- Cháu Nguyễn Việt T, sinh năm 2003.

Người đại diện theo pháp luật: Chị Nguyễn Thị N ( mẹ đẻ).

Địa chỉ: , phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội.

- Cháu Nguyễn Anh T, sinh năm 2006.

Người đại diện theo pháp luật: Chị Nguyễn Thanh H (mẹ đẻ)

Địa chỉ:, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Chỗ ở:, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

- Cháu Dương Anh H, sinh năm 2007.

Người đại diện theo pháp luật: Chị Vương Thị T, sinh năm 1974 (mẹ đẻ).

Địa chỉ:, xã Tân Hòa, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

- Cháu Lê Đức A, sinh năm 2006.

Người đại diện theo pháp luật: Anh Lê Văn T (bố đẻ).

Địa chỉ:, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

- Cháu Nguyễn Gia H, sinh năm 2007.

Người đại diện theo pháp luật: Chị Trần Thị Thủy C (mẹ đẻ).

Địa chỉ:, phường Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Chỗ ở: , chung cư Sài Đồng, phường Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

(Đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên Nguyễn Bích H đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bằng cách đưa ra thông tin giả lừa các cháu học sinh giao tài sản là xe đạp điện cho mình rồi chiếm đoạt tài sản. Cụ thể: khoảng 08h00’ ngày 27/5/2020, H đi bộ quanh khu vực xã La Phù, huyện Hoài Đức, Hà Nội rồi mua 01 chiếc ốp điện thoại mục đích giả vờ là điện thoại thật để đi lừa đảo. Đến khoảng 11h00’ cùng ngày, H đến khu vực cổng trường tiểu học La Phù thì nhìn thấy cháu Nguyễn Văn Minh G (SN: 2008; HKTT: , xã La Phù, Hoài Đức, Hà Nội) đang điều khiển xe máy điện nhãn hiệu HT Bike thì Hg gọi Gig: “Cháu ơi! Cháu có biết cô là mẹ bạn nào không?”. Sau đó, cháu G trả lời: “Cô là mẹ bạn M ạ”. H gọi cháu G đi vào trong khu vực xã La Phù rồi lấy ốp điện thoại giả vờ gọi điện tìm chỗ in khóa và bảo cháu Gg chở tới đoạn đường vắng người. Khi đến, H nói với: “Cho cô mượn xe, cô đi lấy khóa, cháu đứng đây đợi cô, cô quay lại luôn”. Cháu G đồng ý. Sau đó, Hg điều khiển xe máy điện về khu vực quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để tìm nơi tiêu thụ thì bị lực lượng Công an huyện Hoài Đức phối hợp cùng Công an phường phát hiện, bắt giữ và thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu HT Bike màu đen.

Ngoài ra, H còn khai nhận: Trong thời gian từ tháng 02/2019 đến nay, H đã thực hiện 05 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản là xe máy điện với thủ đoạn tương tự trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, Long Biên và Quốc Oai, cụ thể:

Vụ thứ nhất:

Khoảng 11h00’ ngày 11/02/2019, Hg đi bộ đến khu vực cổng trường Trung học thuộc quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội thì nhìn thấy cháu Nguyễn Việt Tg (SN: 2003; Phú Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Osakar nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Hng nói với cháu Tng: “Cháu có phải lớp trưởng lớp 10A4 không”, “Cháu đèo cô về nhà lấy bảng điểm mà cô chủ nhiệm nhờ”. Sau đó, Hg bảo cháu Tng chở đến đường Phúc Minh thuộc phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Khi đến nơi, Hng tiếp tục nói: “Cô chủ nhiệm nhờ đi mua giấy và mực in, cháu cho cô mượn xe, cô đi xong quay lại ngay”. Cháu Tg đồng ý. Hng điều khiển chiếc xe máy điện đến khu vực quận Nam Từ Liêm bán cho 01 người đàn ông (không quen biết) với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Hg đã chi tiêu hết số tiền này.

Vụ thứ hai:

Khoảng 11h30 ngày 08/3/2019, Nguyễn Bích Hg đi bộ đến ngõ 42 đường thuộc quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì gặp cháu Nguyễn Anh T (SN: 2006;, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) điều khiển xe máy điện nhãn hiệu TH Boss, biển số: 29-138.64 nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Hng nói với T: “Cô là mẹ bạn H học cùng với cháu”, “Cháu cho cô mượn xe để đi lấy chìa khóa mở cổng”. Cháu T chưa đồng ý thì Hng kéo cháu T ra khỏi xe. Sau đó, điều khiển chiếc xe máy điện ra khỏi đến khu vực quận Nam Từ Liêm bán cho 01 người đàn ông (không quen biết) với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Hng đã chi tiêu hết số tiền này.

Vụ thứ ba:

Khoảng 12h00’ ngày 11/5/2020, Nguyễn Bích Hng đi bộ đến khu vực nhà thờ, huyện Quốc Oai, Hà Nội thì gặp cháu Dương Anh Hng (SN: 2007; NKTT: , Quốc Oai, Hà Nội) đang điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Anbico Xmans, màu đen xanh, biển số: 2- 226.08 nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Hng nhờ cháu Hng chở đi đến Trường cấp 2 để lấy bảng điểm. Khi đến khu vực cổng chào thuộc , xã Tân Hòa thì Hng mượn xe của cháu Hng để đi lấy bảng điểm. Cháu Hng đồng ý. Sau đó, Hng điều khiển xe máy điện đến khu vực quận Nam Từ Liêm bán cho một người đàn ông (không quen biết) đi trên đường với giá 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Hg đã chi tiêu hết số tiền này.

Vụ thứ tư:

Khoảng 17h00’ ngày 13/5/2020, Nguyễn Bích Hng đi bộ đến cổng Trường thuộc phường Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội thì gặp cháu Lê Đức nh (SN: 2006; , phường Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội) đang điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Xmen SK3, màu xanh nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Hng nói với Đức A: “Con có biết cô là ai không? ”, “Cô là mẹ của Chu N học cùng cháu ”. Sau đó, Hng nhờ Đức Ah chở đến ngõ Nam Từ Liêm, Hà Nội. Khi đến nơi, Hng nói: “Cháu đứng đây đợi bạn xuống mở cửa, cháu cho cô mượn xe, cô ra lấy chìa khóa và mua phong bì rồi cô quay lại ngay”. Cháu Đức nh đồng ý. Hằng điều khiển xe máy điện rồi bán cho một người đàn ông (không quen biết) đi trên đường với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Hng đã chi tiêu hết số tiền này.

Vụ thứ năm:

Khoảng 13h20’ ngày 26/5/2020, Nguyễn Bích Hng đi bộ đến thuộc phường Sài Đồng, Long Biên, Hà Nội thì gặp cháu Nguyễn Gia H (, Long Biên, Hà Nội) điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Nijia Xtreme màu xanh, biển số: 2-060.16 nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Hg nhờ H chở đến phường Sài Đồng. Khi đến nơi, Hng nói: “Cháu cho cô mượn xe, cô đi mua quà cho cô chủ nhiệm xong cô quay lại ngay”. Cháu H đồng ý. Hng điều khiển xe máy điện về khu vực quận Nam Từ Liêm, Hà Nội rồi bán cho một người đàn ông (không quen biết) đi trên đường với giá 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng). Hng đã chi tiêu hết số tiền này.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 90 ngày 28/5/2020 và Bản Kết luận định giá tài sản số: 109 ngày 11/8/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Hoài Đức xác định:

- 01 chiếc máy điện nhãn hiệu HT Bike, màu đen, mã sản phẩm M133SX9, trị giá 3.800.000 đồng (ba triệu tám trăm nghìn đồng).

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Xmen SK3, màu xanh trị giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Osakar, màu xanh đen bạc, biển số: MĐ2- 137.90 trị giá 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu TH Boss màu đen, biển số: MĐ2-138.64 trị giá 8.300.000 đồng (tám triệu ba trăm nghìn đồng).

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Anbico Xmans màu đen xanh, biển số: MĐ3-226.08 trị giá 5.300.000 đồng (năm triệu ba trăm nghìn đồng).

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 86 ngày 24/6/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Long Biên xác định:

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Nijia xtreme, màu xanh, biển số: 060.16 trị giá 9.000.000 đồng (chín triệu đồng).

Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Bích Hng chiếm đoạt là 34.900.000 đồng (ba mươi tư triệu chín trăm nghìn đồng).

Ngày 23/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Đức trao trả tài sản là 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu HT Bike màu đen, mã sản phẩm M133SX9 cho cháu Nguyễn Văn Minh G và người giám hộ là chị. Cháu Gng và chị M đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Đối với những người đàn ông mua các xe máy điện trên: Nguyễn Bích Hng khai không nhớ vị trí cụ thể bán những chiếc xe máy điện và không nhớ đặc điểm của người mua nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

Về trách nhiệm dân sự: Cháu Nguyễn Việt Tng và người giám hộ là chị Nguyễn Thị Nm yêu cầu bồi thường số tiền 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng); cháu Nguyễn Anh T và người giám hộ là chị Nguyễn Thanh H yêu cầu được bồi thường số tiền 8.300.000 đồng (tám triệu ba trăm nghìn đồng); cháu Lê Đức h và người giám hộ là anh Lê Văn T yêu cầu được bồi thường số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng); cháu Dương Anh Hng và người giám hộ là chị Vương Thị Tn yêu cầu được bồi thường số tiền 5.300.000 đồng; cháu Nguyễn Gia H và người giám hộ là chị Trần Thị Thủy C yêu cầu được bồi thường số tiền 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Bích Hg đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản cáo trạng số 116/CT-VKSHĐ-HN ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức - Thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Bích Hg về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1, Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện VKS nhân dân huyện Hoài Đức giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1, Điều 174; Điểm s Khoản 1 Điều 51; các điểm g, h, i Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 24-30 tháng tù. Truy thu số tiền 6 triệu đồng thu lời bất chính.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác nên trong khoảng thời gian từ ngày 11/02/2019 đến ngày 27/5/2020, Nguyễn Bích Hng đã dùng thủ đoạn gian dối để thực hiện 06 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại các địa phương thuộc huyện Hoài Đức, huyện Quốc Oai, quận Bắc Từ Liêm, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Tại đây bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của 06 người bị hại. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 34.900.000 đồng (ba mươi tư triệu chín trăm nghìn đồng).

Hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác của Nguyễn Bích Hng đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.

[3]. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đã thành niên, có năng lực trách nhiệm hình đầy đủ.

[4]. Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo Bản cáo trạng và Lời luận tội của Viện kiểm sát. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Bích Hng đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[5]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Tòa án xét xử nghiêm minh vụ án nhằm giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.

[6]. Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm; phạm tội từ 02 lần trở lên; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi và là người có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị kết án phạt tù về hành vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

[7]. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo.

[8]. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy bị cáo không có đủ điều kiện để được tự cải tạo ngoài môi trường xã hội bình thường mà cần thiết phải áp dụng hình phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[9]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại Điều 38 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn là phù hợp.

[10]. Bị cáo đang bị tạm giam, để đảm bảo việc thi hành án, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 109, 113, 119 và 329 của Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày (bốn mươi lăm ngày), kể từ ngày tuyên án.

[11]. Xét thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 điều 174 Bộ luật hình sự.

[12]. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho cháu Nguyễn Việt Tg và người giám hộ là chị Nguyễn Thị Nm số tiền 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng); cháu Nguyễn Anh T và người giám hộ là chị Nguyễn Thanh H số tiền 8.300.000 đồng (tám triệu ba trăm nghìn đồng); cháu Lê Đức nh và người giám hộ là anh Lê Văn Tn số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng); cháu Dương Anh Hng và người giám hộ là chị Vương Thị Tn số tiền 5.300.000 đồng; cháu Nguyễn Gia H và người giám hộ là chị Trần Thị Thủy C số tiền 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng).

[13]. Về vật chứng của vụ án: Không.

[14]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[15]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 174; Điểm s Khoản 1 Điều 51; các điểm g, h, i Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bích Hng phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bích Hng 32 (Ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/5/2020.

*Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Bích Hg bồi thường cho cháu Nguyễn Việt Tng và người giám hộ là chị Nguyễn Thị Nm số tiền 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng); cháu Nguyễn Anh T và người giám hộ là chị Nguyễn Thanh H số tiền 8.300.000 đồng (tám triệu ba trăm nghìn đồng); cháu Lê Đức nh và người giám hộ là anh Lê Văn Tn số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng); cháu Dương Anh Hng và người giám hộ là chị Vương Thị Tn số tiền 5.300.000 đồng; cháu Nguyễn Gia H và người giám hộ là chị Trần Thị Thủy C số tiền 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng). Tổng cộng là 31.100.000đ (Ba mươi mốt triệu một trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành) cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Bích Hg nộp số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) thu lời bất chính để sung Ngân sách Nhà nước.

* Quyền yêu cầu thi hành án dân sự:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội Khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Bích Hng phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.555.000đ (Một triệu năm trăm năm mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự.

* Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:114/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về