Bản án 114/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BT, TỈNH BẾN TRE

 BẢN ÁN 114/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 124/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 123/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

TRẦN THỊ T, sinh năm 1991 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 22/AQ, ấp AQ, xã VA, huyện BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trần Văn S, sinh năm 1968;Mẹ: Lê Thị V, sinh năm 1971; Bị cáo không có chồng nhưng có 01 con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 03/11/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Võ Thanh P, sinh năm 1981;

Nơi cư trú: Số 54C, ấp B, xã PN, thành phố BT, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

- Bà Lê Thị T, sinh năm 1969;

Nơi cư trú: Số 172/GK, ấp GK, xã AĐ, huyện BT, tỉnh Bến Tre (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Thị T và anh Võ Thanh P là bạn bè với nhau. Vào ngày 07/6/2019, bị cáo T mang xe môtô biển số 71C2-549.24 đến gặp anh P nói là xe của mẹ T (là bà Lê Thị V) do cần tiền nên cầm xe để vay 30.000.000 đồng. Anh P đồng ý với điều kiện xe này phải có giấy tờ hợp pháp. Do bị cáo T thấy chiếc xe môtô biển số 71C2-549.24 tuy là của T nhưng nhờ người dì tên Lê Thị T đứng tên mua trả góp, chưa trả tiền xong và Công ty HD Saison còn đang giữ giấy đăng ký xe nên bị cáo T nảy sinh ý định thuê người khác làm giả giấy đăng ký xe môtô biển số 71C2- 549.24 để cầm cho anh P vay tiền.

Để thực hiện ý định, bị cáo T liên hệ với người đăng quảng cáo làm giấy giả trên mạng xã hội zalo đặt làm giấy đăng ký xe môtô giả, chụp hình bản sao giấy đăng ký xe môtô biển số 71C2-549.24 và cung cấp họ tên, địa chỉ của bà Lê Thị V gửi qua zalo cho người làm giấy giả. Sau khi làm xong, người làm giấy giả liên lạc với bị cáo T hẹn giao giấy đăng ký xe tại Bến xe Miền Tây ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 08/6/2019, bị cáo T lên Bến xe Miền Tây thì được một người chạy xe ôm giao giấy đăng ký xe môtô giả và bị cáo trả tiền công là 3.000.000 đồng. Đến chiều tối cùng ngày 08/6/2019, bị cáo đem xe môtô biển số 71C2-549.24 và giấy đăng ký xe môtô giả đến giao cho anh P và được anh P cho vay 30.000.000 đồng. Khi nhận tiền, bị cáo viết giấy cam kết nếu sau 30 ngày không hoàn trả được tiền thì anh P sẽ thanh lý chiếc xe này. Sau 30 ngày, anh P không thấy bị cáo trả tiền nên tìm gặp thì bị cáo năn nỉ trả tiền giữ xe cho anh P 2.500.000 đồng và hứa sẽ kiếm tiền trả cho anh P để chuộc lại xe. Anh P đồng ý và yêu cầu bị cáo tranh thủ trả lại số tiền 30.000.000 đồng mà không cần tính lãi. Sau đó, anh P không liên lạc được với bị cáo, nghi ngờ bị cáo lừa dối nên anh P đem chiếc xe môtô biển số 71C2- 549.24 đến Phòng CSGT Công an tỉnh Bến Tre tra cứu thông tin thì phát hiện chiếc xe biển số 71C2-549.24 mang tên chủ xe là Lê Thị T, nên đã tố giác đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố BT. Còn bị cáo sau đó xuất cảnh sang Trung Quốc và có gửi cho bà T số tiền 26.000.000 đồng để trả cho Công ty HD Saison thanh lý hợp đồng lấy giấy đăng ký của xe môtô biển số 71C2-549.24 ra và sau khi về nước bị cáo đã trả cho anh P số tiền 30.000.000 đồng để chuộc lại chiếc xe môtô biển số 71C2-549.24.

Vật chứng thu giữ:

- 01 môtô nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, biển số 71C2-549.24 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 034802 đề cấp ngày 16 tháng 11 năm 2018 mang tên chủ xe Lê Thị V, địa chỉ 022/AQ, Vĩnh An, Ba Tri, Bến Tre (do anh Võ Thanh P giao nộp).

- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 034802, mang tên chủ xe Lê Thị T (do Lê Thị T giao nộp).

Theo Kết luận giám định số 20/2020/GĐTL-SKSM ngày 25/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận:

1. Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 034802 đề cấp ngày 16 tháng 11 năm 2018 mang tên chủ xe Lê Thị V, địa chỉ 022/AQ, Vĩnh An, Ba Tri, Bến Tre (ký hiệu A) là giấy giả và được làm giả bằng phương pháp in phun màu.

2. Xe môtô biển kiểm soát 71C2-549.24:

- Số khung trước giám định: RLHJF6329HZ160453. Số khung sau giám định không bị cắt hàn, đục sửa.

- Số máy trước giám định: JF63E-2192921. Số máy sau giám định không bị cắt, hàn, đục sửa.

Tại Bản cáo trạng số 124/CT-VKSND-TPBT ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Trần Thị T về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, vì động cơ tư lợi bị cáo đã sử dụng tài liệu giả của Nhà nước, bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo đang nuôi con nhỏ; gia đình bị cáo có công với đất nước; bị cáo theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Thị T từ 06(sáu) tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01(một) năm đến 01 năm 06 tháng.

Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 46 BLHS; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, biển số 71C2- 549.24 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 034802. Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 034802, mang tên chủ xe Lê Thị T mà Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Trần Thị T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã xác định, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố BT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Thanh P vắng mặt, tuy nhiên ông Phong đã có lời khai rõ ràng trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của ông Phong không trở ngại cho việc xét xử, cũng không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Phong theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Bị cáo Trần Thị T có lời khai tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định:

Vào ngày 08/6/2019, trên địa bàn thành phố BT, tỉnh Bến Tre, bị cáo Trần Thị T đã có hành vi sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 034802 giả nhằm tạo giấy tờ hợp lệ đối với chiếc xe môtô biển số 71C2-549.24 để cầm cho Võ Thanh P vay số tiền 30.000.000 đồng.

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo đã thực hiện hành vi sử dụng giấy đăng ký xe mô tô biển số 71C2-549.24 giả để cầm xe cho người khác nhằm mục đích vay tiền. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, làm giảm hiệu lực quản lý hành chính của Nhà nước. Bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước được Luật Hình sự bảo vệ, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Bản cáo trạng số 124/CT-VKSTPBT ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát Nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Trần Thị T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng luật định.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo có nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo không có chồng nhưng có 01 con sinh năm 2008, gia đình bị cáo có công với đất nước nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy ngoài lần phạm tội này bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, không vi phạm các điều luật cấm, chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính hay bị xử lý kỷ luật; Bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đồng thời không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên theo Điều 65 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bị cáo có đủ điều kiện để được hưởng án treo. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo luật định cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo cũng như thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[7] Hình phạt bổ sung: do áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Lời phát biểu luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, biển số 71C2-549.24 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 034802, mang tên chủ xe Lê Thị T là tài sản của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 034802, mang tên chủ xe Lê Thị T mà Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Trần Thị T phải nộp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Thị T 06(sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01(một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 23/12/2020;

Giao bị cáo Trần Thị T cho Ủy ban Nhân dân xã VA, huyện BT, tỉnh Bến Tre giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo: 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, biển số 71C2-549.24 và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 034802, mang tên chủ xe Lê Thị T.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/12/2020, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố BT đang quản lý) 3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trần Thị T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:114/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về