Bản án 114/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội trộm cắp tài sản và tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 114/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 112/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Vĩnh K, sinh năm 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Tổ 3, ấp 7, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Vĩnh P, sinh năm 1967 và bà Lê Thị C, sinh năm 1976; tiền án:

Không; tiền sự: Ngày 23/4/2019 bị Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng, thời hạn 06 tháng; nhân thân: Ngày 29/01/2016 bị Tòa án nhân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý Hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng, đã chấp Hành xong; bị bắt, tạm giam ngày 29/10/2019.

2. Hồ Thanh P (tên thường gọi là L), sinh năm 1998 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Tổ 3, ấp 7, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Thanh G, sinh năm 1974 và bà Đặng Kim H, sinh năm 1974; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Tuyết H, sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26/9/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 6 tháng tù giam về tội Cướp giật tài sản, chấp Hành xong vào ngày 05/10/2014; bị bắt, tạm giam ngày 31/12/2019.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Ông Trần Thu N, sinh năm 1973; trú tại: 82A, khu A, đường A, ấp A, xã An, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Ông Thái Hữu Đ, sinh năm 1979; trú tại: 369 ấp A, xã A, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Đặng Kim H, sinh năm 1976; trú tại: Ấp 7, xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Bà Trần Thị Thanh L, sinh năm 1999; trú tại: Ấp 2, xã T, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1985; trú tại: Ấp 3, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Bà Huỳnh Thị P, sinh năm 1984; trú tại: Bùi Ngọc Thu, khu 8, phường Hiệp A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; tạm trú: 369 ấp A, xã A, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Trần Anh Q, sinh năm 2000; Vắng mặt, có đơn yêu cầu vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Thanh P và Huỳnh Vĩnh K là bạn bè, khoảng 11 giờ 00 phút ngày 17/10/2019, K đang ở tại địa chỉ: Ấp 7, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thì P gọi điện thoại rủ K đi qua thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương chơi, thì K đồng ý. Sau đó, K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Airblade (không xác định được biển số), màu cam - đen chạy đến khu vực chợ Lái Thiêu, thành phố Thuận An thì gặp P đang đứng đợi sẵn ở đây. Lúc này, P điều khiển xe mô tô của K và chở K đi chơi. Trên đường đi, P rủ K đi tìm nH người dân sở hở để đột nhập vào trộm cắp tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài cá nhân thì K đồng ý. Thực hiện ý định trên, P chở K ghé vào một cửa Hng bán vật liệu xây dựng (không xác định được địa chỉ) P đi vào mua 01 cây kìm bấm bằng kim loại rồi đưa cho K giữ. Sau đó, P tiếp tục điều khiển xe mô tô chở K đi trên các tuyến đường thuộc địa bàn xã An Sơn để tìm nhân dân sơ hở đột nhập để trộm cắp tài sản. Khi cả hai chạy đến trước căn nhàà số 369, ấp An Quới, xã An Sơn, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương của ông Thái Hữu Đ làm chủ, thấy cửa cổng nH khóa ngoài, bên trong không có người nên cả hai dừng xe lại. Lúc này, P leo rào vào bên trong dùng kìm bấm cắt khóa cửa cổng mở cửa cho K đẩy xe mô tô vào bên trong sân. Sau khi đẩy xe vào trong sân, K quay đầu xe ra ngoài để dễ dàng tẩu thoát khi bị phát hiện, còn P thì đi đến cửa chính của căn nhà tiếp tục dùng kìm bấm để bẻ ổ khóa nhưng không bẻ được. Thấy P không bẻ được ổ khóa cửa nhà nên K đi tìm trước khu vực sân nhà thì thấy 01 cây xà beng bằng kim loại của chủ nH và dùng cây xà beng để bẻ khóa cửa. Sau khi bẻ được khóa cửa nhà thì cả hai đi vào bên trong căn nhà để tìm tài sản trộm cắp thì cả hai phát hiện thấy 02 chiếc xe mô tô để trong phòng khách liền dùng tua vít, xà beng (có sẵn tại căn nhà) bẻ ổ khóa xe và dây xích xe nhưng không bẻ được. K thấy một số tờ tiền cũ (loại tiền giấy không còn lưu Hành trên thị trường) gồm: 01 tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 20 đồng, 01 tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 20 đồng, 01 tờ tiền có mệnh giá 1000đồng, 02 tờ tiền có mệnh giá 100đồng và 01 tờ tiền có dòng chữ National Bank of Cambodia để dưới bàn nên đã nhấc tấm kính lên và lấy số tiền trên bỏ vào túi quần. Sau đó, P và K tiếp tục đi vào hai phòng ngủ của căn nhà trên để lục soát tìm kiếm tài sản. Khi lục soát bên trong phòng ngủ thì P thấy 01 cây dao tự chế nên cầm lấy đưa cho K cầm. Cả hai tiếp tục lục soát, P thấy trên đầu tủ trong phòng khách có để 03 tượng gỗ Phước - Lộc - Thọ và 02 bình hoa (lục bình) bằng gỗ nên lấy xuống đưa cho K bỏ vào chiếc ba lô mang ra để trên xe mô tô. Khi K mang chiếc ba lô đựng tài sản trộm cắp được mang ra xe mô tô thì thấy ông Trần Thu N và ông Trần Anh Q đi trên chiếc xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 61F8-8060, số máy 00608399, số khung 33000761 đứng trước cổng và truy hô “cướp, cướp”. Lúc này, K đang đứng bên ngoài thấy vậy nên la lên “Chủ nH về rồi kìa mày ơi” để báo động cho P đang ở trong nH biết. Đồng thời, ngay tức khắc K cầm cái đĩa xe mô tô bằng kim loại có sẵn trước nH ném về Pa ông N và ông Q nhưng không trúng, rồi cầm con dao tự chế giơ lên chạy ra đe dọa, đuổi chém ông N và ông Q bỏ chạy. Lúc này, P từ trong nH chạy ra và điều khiển xe mô tô Airblade chở 03 tượng gỗ P - Lộc - Thọ và 02 bình hoa bằng gỗ vừa chiếm đoạt được chạy ra ngoài tẩu thoát. Còn K sau khi dùng dao tự chế đe dọa, đuổi chém làm cho ông N và ông Q hoảng sợ bỏ chạy và để lại chiếc xe mô tô biển số 61F8-8060 trên xe đang cắm sẵn chìa khóa nên P đã chiếm đoạt chiếc xe này điều khiển chạy về một căn chòi tại ấp 1, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh để gặp P chia tài sản. P lấy 03 tượng gỗ, 02 bình hoa bằng gỗ, còn K giữ lại chiếc xe mô tô biển số 61F8-8060 để sử dụng làm phương tiện đi lại. Sau đó, P mang số tài sản gồm 03 tượng gỗ, 02 bình hoa bằng gỗ đến địa bàn huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh bán cho một thanh niên tên Thông (không xác định được nhân thân, lai lịch) với giá 1.500.000đồng. Chiếc xe mô tô biển số 61F8-8060 thì K đã tháo biển số chiếc xe này ra vứt bỏ và lấy biển số giả 53P4-0019 gắn vào để sử dụng làm phương tiện đi lại đến ngày 29/10/2019 thì bị Công an thành phố Thuận An phát hiện bắt khẩn cấp.

Theo Biên bản định giá và Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An ngày 24/10/2019 xác định 03 tượng gỗ Phước - Lộc - Thọ có giá trị là 3.500.000đồng; 02 bình hoa bằng gỗ có giá trị là 700.000đồng; 01 xe mô tô biển số 61F8-8060 có giá trị là 1.600.000đồng.

Tại bản Cáo trạng số 127/CT-VKS-TA ngày 23/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo Huỳnh Vĩnh K tội “Trộm cắp tài sản” và “Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 và điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Hồ Thanh P tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi giao trả cho chủ sở hữu; về nhân thân: Các bị cáo có nhân xấu, bị cáo P đã từng bị kết án, bị cáo K đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý Hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, áp dụng cai nghiện tại cộng đồng.

Kiểm sát viên đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173 và điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Vĩnh K mức án từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Cướp tài sản, từ 07 (bảy) tháng đến 10 (mười) tháng tù về tội trộm cắp tài sản, tổng hợp bị cáo pH chấp Hành cả hai tội 07 (bảy) năm 07 (bảy) tháng đến 08 (tám) năm 04 (bốn) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Hồ Thanh P mức án từ 07 (bảy) tháng đến 10 (mười) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự, do các bị hại không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc biển số 53P4-0019 được bị cáo K sử dụng gắn vào chiếc xe mô tô biển số 61F8-8060 chiếm đoạt được để sử dụng, quá trình điều tra xác định đây là biển số giả nên cần tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ Hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về Hành vi, quyết định của cơ quan tiến Hành tố tụng, người tiến Hành tố tụng. Do đó, các Hành vi, quyết định của cơ quan tiến Hành tố tụng, người tiến Hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Vĩnh K, Hồ Thanh P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ Hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo thống nhất với nhau, phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của các bị hại, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:

Khong 11 giờ 00 phút ngày 17/10/2019, tại nH số 369, ấp An Quới, xã An Sơn, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương của ông Thái Hữu Đ và bà Huỳnh Thị P, khi phát hiện thấy không có ai ở nH các bị cáo Huỳnh Vĩnh K, Hồ Thanh P đã lén lút dùng kìm, xà beng để cắt, phá khóa cổng và khóa nH chiếm đoạt tài sản của bị hại gồm: 03 tượng gỗ Phước - Lộc - Thọ có giá trị là 3.500.000đồng; 02 bình hoa bằng gỗ có giá trị là 700.000đồng. Hành vi của các bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Khi các bị cáo đang lén lút thực hiện Hành vi phạm tội Trộm cắp tài sản thì bị ông Trần Thu N và ông Trần Anh Q phát hiện truy hô “cướp cướp” thì bị cáo Huỳnh Vĩnh K đã sử dụng đĩa xe mô tô bằng kim loại ném về Pa ông N và ông Q nhưng không trúng, rồi cầm con dao tự chế rượt đuổi đánh ông N, ông Q làm cho ông N, ông Q hoảng loạn không thể chống cự và chiếm đoạt tài sản là 01 xe mô tô biển số 61F8-8060 có giá trị là 1.600.000đồng. Hành vi của bị cáo K đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Cướp tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An truy tố bị cáo Huỳnh Vĩnh K phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và tội Cướp tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Hồ Thanh P tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật, mức đề nghị hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với Hành vi các bị cáo đã thực hiện.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo nhận thức rõ Hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản và dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi và muốn có tiền tiêu xài nên đã cố ý phạm tội.

Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, trong đó đối với tội Trộm cắp tài sản thì bị cáo P là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ phạm tội và cùng bị cáo K thực hiện Hành vi phạm tội, nên tính chất nguy hiểm cho xã hội của bị cáo P cao hơn bị cáo K. Đối với Hành vi của bị cáo K thực hiện Hành vi dùng vũ khí chiếm đoạt tài sản của ông N thì bị cáo P không biết nên bị cáo K phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi đã thực hiện. Các bị cáo có nhân xấu, bị cáo P đã từng bị kết án về tội Cướp giật tài sản, bị cáo K đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý Hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, áp dụng cai nghiện tại cộng đồng về Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; tài sản bị cáo K chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại, nên bị cáo K được hưởng thêm tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Bị cáo K cùng một lần bị xét xử về nhiều tội nên áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo K chiếm đoạt là mô tô kiểu dáng Dream, biển số 61F8-8060, số máy 00608399, số khung 33000761 đã được thu hồi giao trả cho bị hại; đối với 03 tượng gỗ Phước - Lộc - Thọ, 02 bình hoa bằng gỗ mà các bị cáo chiếm đoạt của ông Thái Hữu Đ và bà Huỳnh Thị P hiện không thu hồi được, bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đi với chiếc xe mô tô kiểu dáng Airblade (không xác định được biển số) mà các bị cáo sử dụng làm phương tiện để thức hiện Hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định P mượn chiếc xe này của một người bạn quen biết ngoài xã hội và không xác định được nhân thân, lai lịch của người này, sau khi thực hiện Hành vi đã trả lại cho người cho mượn, hiện không thu hồi được nên không có căn cứ xử lý.

Đi với con dao tự chế được mà bị cáo K sử dụng để đe dọa, tấn công chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 61F8-8060 của ông Trần Thu N, sau khi chiếm đoạt bị cáo để con dao trên xe chạy tẩu thoát đã làm rơi trên đường không xác định được địa điểm nên không thu hồi được.

Đi với 01 chiếc biển số 53P4-0019 được bị cáo K sử dụng gắn vào chiếc xe mô tô biển số 61F8-8060 chiếm đoạt được để sử dụng, quá trình điều tra xác định đây là biển số giả nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 02 tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 20 đồng, 01 tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 1000 đồng, 02 tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 100 đồng và 01 tờ tiền có dòng chữ National Bank of Cambodia. Quá trình điều tra xác định số tiền cũ này không có giá trị sử dụng và thuộc sở hữu của ông Thái Hữu Đ nên Cơ quan điều tra đã ra trả lại cho ông Đ là đúng quy định.

Đi với chiếc xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 61F8-8060, số máy 00608399, số khung 33000761 quá trình điều tra xác định, người đứng tên đăng ký chiếc xe này là ông Nguyễn Tuấn H. Ông H đã bán lại chiếc xe này cho ông Huỳnh Thu N vào khoảng năm 2010 nhưng chưa làm hợp đồng sang tên, ông H không có yêu cầu gì đối với chiếc xe này, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông N là có căn cứ, đúng quy định.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (áp dụng đối với bị cáo Hồ Thanh P);

- Khoản 1 Điều 173; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 58; Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (áp dụng đối với bị cáo Huỳnh Vĩnh K);

- Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Hồ Thanh P phạm tội Trộm cắp tài sản, bị cáo Huỳnh Vĩnh K phạm tội Trộm cắp tài sản và tội Cướp tài sản.

Xử phạt bị cáo Hồ Thanh P 10 (mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2019.

Xử phạt bị cáo bị cáo Huỳnh Vĩnh K 07 (bảy) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 07 (bảy) năm tù về tội Cướp tài sản, tổng hợp hình phạt bị cáo chấp Hành chung cả hai tội là 07 (bảy) năm 07 (bảy) tháng, thời hạn chấp Hành hình phạt tù tính từ ngày 29/10/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 53P4-0019.

(theo biên bản giao nhận vật chứng 12/12/2019)

3. Về án phí: Các bị cáo Hồ Thanh P, Huỳnh Vĩnh K mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội trộm cắp tài sản và tội cướp tài sản

Số hiệu:114/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về