Bản án 114/2020/HSST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 114/2020/HSST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 119/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Hà Đình L , Sinh năm: 1975; Tại Thanh Hóa. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 7/12; Con ông Hà Đình X( Đã chết); và bà Hà Thị H; vợ: Lê Thị M: và có 02 con lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2004; Tiền án: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn xử phạt 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/01/2019; Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 15/02/2020, tạm giam từ ngày 21/02/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30’ ngày 14/02/2020 tại khu vực C, đường N, phường P, thành phố Thanh Hóa. Tổ công tác Công an phường P phát hiện Hà Đình L điều khiển xe mô tô BKS: 36B3-493.81 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Khi bị yêu cầu kiểm tra, L thả xuống đường từ chân trái 01 chiếc dép, tổ công tác kiểm tra và phát hiện sát bên cạnh chiếc dép có 03 gói giấy màu trắng kích thước 1 x 2 cm bên trong có chứa chất bột màu trắng. Kiểm tra thu giữ trong người L 02 chiếc kim tiêm và 06 lọ nước cất. L khai nhận: 03 gói giấy L thả xuống đường là ma túy loại Hêrôin, L tàng trữ mục đích để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số787/PC09 ngày 19/02/2020, Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phòng bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,230 gam, loại Hêrôin Tại bản cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 30/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố Hà Đình L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, đề nghị mức hình phạt đối với Hà Đình L từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù.

Về vật chứng đề nghị áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng. Tại phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên; Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, một lần nữa bị cáo Hà Đình L thừa nhận: Do bản thân nghiện ma túy, nên khoảng 20 giờ 00 ngày 14/02/2020, L một mình đi đến xã Đ, thành phố T mua của một người đàn ông( không biết địa chỉ, lai lịch) 03 gói ma túy với giá 200.000 đồng mục đích để sử dụng. Khi L đến khu vực C, đường N, phường P, thành phố T thì bị tổ công tác Công an phường P phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tang vật. Bị cáo thừa nhận gói Heroine có khối lượng 0,230 gam như kết luận giám định đúng là của bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Hà Đình L có đủ dấu hiệu cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 swqar đổi năm 2017.

[3]. Về tính chất vụ án: Tệ nạn và tội phạm về ma túy là hiểm họa cho toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến kinh tế, đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác, là tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về nhân thân và trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy và chất ma túy do nhà nước độc quyền quản lý, bản thân bị cáo đã có tiền án về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án nay lại tiếp tục phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân mà sống buông thả, xem thường pháp luật. Lần này bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm đây là tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Với tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, việc cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định là 0,202 gam Heroine là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 02 bơm tiêm chưa sử dụng và 06 lọ nước cất không có giá trị sử dụng, hiện vật chứng trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá, nên căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu huỷ.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017. Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Tuyên bố: Bị cáo Hà Đình L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Hà Đình L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 15/02/2020.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy :- 02 bơm tiêm chưa sử dụng;

- 06 lọ nước cất;

- Số ma túy 0,202 gam Heroine còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì được đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 116/THA ngày 27/4/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2020/HSST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:114/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về