Bản án 114/2020/HSST ngày 08/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 114/2020/HSST NGÀY 08/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08/07/2020 tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 99/2020/TLST- HS, ngày 21/5/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2020/QĐXXST-HS ngày 26/6/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Xuân L, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn L, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu H, sinh năm 1970 và bà Đào Thị B, sinh năm 1972; Có vợ: Hoàng Thanh T, sinh năm 1995 và có 02 con: con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2019;

Tiền án: Có 01 tiền án. Tại bản án số 63/2014/HSST ngày 09/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù 26/4/2018;

Tiền sự: Không; Nhân thân:

Ngày 13/10/2006, UBND huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đưa vào Tr giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng.

Tại bản án số 09/2009/HSST ngày 24/02/2009 của Tòa án nhân dân huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Trước ngày phạm tội năm 2014 đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; Có mặt.

2. Vũ Anh T, sinh năm 1991; Nơi cư trú:; Thôn L 1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Văn M, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1964; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân:

Tại Bản án số 09/2009/HSST ngày 24/02/2009 của Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Tại Bản án số 77/2013/HSST ngày 23/7/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại Bản án số 93/2015/HSST ngày 19/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 10 tháng 6 năm 2017 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ Bản án.

Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Vũ Anh T: Ông Trần Văn Tr, sinh năm 1983. Luật sư, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt.

Bị hại:

1. Trần Thị N, sinh năm 1991; HKTT: Số nhà 204, khu H, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Trú tại: Số nhà 34, Lê Chân, khu 2, phường Đ, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt.

2. Phạm Thị B, sinh năm 1993; HKTT: Thôn C, xã N K, huyện N L, tỉnh Thanh Hoá. Trú tại: Số nhà 34, Lê Chân, khu 2, phường Đ, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 23/6/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh nhận được đơn trình báo của chị: Trần Thị N, sinh năm 1991, HKTT: Số nhà 204, khu Hòa Đình, phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, trú tại: Số nhà 34, Lê Chân, khu 2, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và chị Phạm Thị B, sinh năm 1993 ở huyện N Lặc, tỉnh Thanh Hóa, hiện đang thuê trọ tại nhà chị N về việc 02 chị bị kẻ gian trộm cắp 02 chiếc xe mô tô. Sau khi nhận được đơn trình báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã tiến hành điều tra theo quy định.

Đến ngày 31/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Xuân L, sinh năm 1991, HKTT: Thôn Lâm Xá 3, xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh và Vũ Anh T, sinh năm 1991, ở Thôn Lâm Xá 1, xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 14/12/2019 ra quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Nghĩa, sinh năm 1988, ở Thôn Lâm Xá 4, xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh về tội “Trộm cắp tài sản”. Qua đấu tranh, tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, L và T còn khai nhận ngoài hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương ra, L, T và Nghĩa còn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh để xử lý theo quy định.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh cũng như tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Xuân L, Vũ Anh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 20/6/2019, Nguyễn Xuân L, Vũ Anh T, cùng Nguyễn Văn Nghĩa, cùng rủ nhau đến thành phố Bắc Ninh để trộm cắp tài sản bán lấy tiền ăn tiêu. Trước khi đi Nghĩa chuẩn bị 01 bình xịt hơi cay, 01 kìm phá khóa và 01 con dao dài khoảng 60cm. Sau đó, cả 03 cùng đi trên 01 xe ô tô bán tải nhãn hiệu Ford Range màu trắng, BKS: 14C-288.99 do L thuê của anh Kiều Đình Ba, sinh năm 1994, HKTT: Tổ 1, Hợp Thành, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, L là người điều khiển xe đến thành phố Bắc Ninh. Do sợ bị phát hiện nên trước khi đến thành phố Bắc Ninh, T và Nghĩa xuống xe để Nghĩa dán biển số giả vào xe. Sau đó L điều khiển xe đến khu 2, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, L phát hiện thấy trong sân khu nhà trọ của chị Trần Thị N để nhiều xe mô tô thì L dừng xe lại. L, T và Nghĩa quyết định cắt khóa cổng khu nhà trọ của chị N để trộm cắp xe mô tô. Sau đó L đỗ xe cách cổng khu nhà trọ của chị N khoảng 50m, còn Nghĩa, T đi đến cổng khu trọ. Nghĩa dùng kìm mang theo từ trước cắt khóa cổng, còn T cầm dao mang theo từ trước đứng cảnh giới. Sau khi Nghĩa cắt được khóa cổng, Nghĩa đi vào trong khu nhà trọ, lợi dụng lúc mọi người trong khu trọ ngủ say, không có ai trông giữ tài sản, Nghĩa phát hiện được chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, BKS:

36K1-117.62 màu đỏ - đen của chị Phạm Thị B không khóa cổ khóa càng. Nghĩa dắt chiếc xe này ra chỗ xe ô tô L đang đứng chờ, cả 3 cùng bê chiếc xe vừa trộm cắp được lên thùng xe ô tô. Sau đó Nghĩa lại tiếp tục cùng T quay lại khu nhà trọ, Nghĩa lại vào lấy được 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode, màu vàng nâu, BKS: 99G1-307.16 (chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện) của chị N rồi giao xe lại cho T để T điều khiển xe về Quảng Ninh. L điều khiển xe chở Nghĩa cùng chiếc xe trộm cắp được của chị B về Quảng Ninh. Trên đường đi, L gọi điện thoại cho 01 đối tượng tên Tùng, khoảng 30 tuổi ở Quảng Ninh (L không biết chính xác tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của Tùng ở đâu) để bán 02 chiếc xe vừa trộm cắp được thì đối tượng Tùng nhận lời và hẹn địa điểm mua bán xe. Khi về đến nghĩa trang xã Yên Đức, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh thì L, Nghĩa và T gặp Tùng. L và Tùng thỏa thuận Tùng mua 02 chiếc xe trên với giá 30.000.000 đồng, trong đó xe mô tô Honda SH mode, màu vàng nâu, BKS:

99G1-307.16 là 12.000.000 đồng; xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, BKS:

36K1-117.62 màu đỏ - đen là 18.000.000 đồng. Sau khi Tùng giao tiền cho L. L cầm tiền, sau đó L, T, Nghĩa đi luôn nên không để ý Tùng đi bằng phương tiện gì đến và không rõ Tùng vận chuyển 02 chiếc xe trên bằng phương tiện gì. Số tiền bán được 02 chiếc xe trên, L trừ tiền thuê xe, số tiền còn lại L chia đều cho mỗi người 9.500.000 đồng. Số tiền được chia L và T đã chi tiêu cá nhân hết. Sau đó Nghĩa bóc biển số giả ra rồi Nghĩa, T mang biển số xe giả cùng 01 bình xịt hơi cay, 01 kìm phá khóa và 01 con dao dài khoảng 60cm (do Nghĩa là người chuẩn bị, hiện Nghĩa đã bỏ trốn, do vậy chưa xác định được đặc điểm cụ thể của con dao) đi cất giấu ở khu rừng gần nhà T tại Đông Triều, Quảng Ninh. Hôm sau T, Nghĩa quay lại thì không tìm thấy những đồ vật đã cất giấu.

Ngày 25/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã yêu cầu định giá chiếc xe mô tô Honda SH mode, màu vàng nâu, BKS: 99G1- 307. 16 và xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, BKS: 36K1-117.62 màu đỏ - đen nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá số 183/KL- HĐ ngày 28/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Bắc Ninh kết luận: Chiếc xe mô tô Honda SH mode, màu vàng nâu, BKS: 99G1-307. 16 đã qua sử dụng có trị giá tại thời điểm định giá là 52.000.000 đồng; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, BKS: 36K1-117.62 màu đỏ - đen đã qua sử dụng có trị giá tại thời điểm định giá là 63.000.000 đồng; tổng giá trị 02 chiếc xe là 115.000.000 đồng.

Vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô Honda SH mode, màu vàng nâu, BKS:

99G1-307. 16; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, BKS: 36K1-117.62 màu đỏ - đen, 01 bình xịt hơi cay, 01 kìm phá khóa và 01 con dao dài khoảng 60cm. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh chưa thu hồi lại được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã ra thông báo truy tìm vật chứng, khi nào thu hồi lại được sẽ xử lý sau.

Trách nhiệm dân sự : Chị N và chị B yêu cầu các đối tượng trộm cắp xe mô tô của các chị phải bồi thường cho chị B, chị N số tiền tương ứng với giá trị của những chiếc xe mà các chị bị các đối tượng trộm cắp theo kết luận định giá tài sản.

Với nội dung vụ án như trên bản Cáo trạng số 85/CT - VKSNDTPBN, ngày 19/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Xuân L và Vũ Anh T về tội "Trộm cắp tài sản" theo Điểm c, Khoản 2, Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng.

Cũng tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Bắc Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội "Trộm cắp tài sản" và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c, Khoản 2, Điều 173; Điều 17; Điều 58; Điểm s, Khoản 1, Điều 51; (bị cáo L thêm Điểm h, Khoản 1, Điều 52); Điều 38; Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân L từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù và Vũ Anh T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân L và Vũ Anh T mỗi bị cáo phải bồi thường cho chị B là 31.5000.000đ và chị N 26.000.000đ.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Vũ Anh T có các giấy tờ điều trị về bệnh thần kinh, tâm thần vì thế cơ quan cảnh sát Điều tra đã mời luật sư chỉ định theo quy định của pháp luật và cho trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Tại kết luận giám định pháp y tâm thần số 83/KL-GĐ ngày 12/3/2020 của Viện pháp y tâm thần Trung ương, Kết luận trước, trong thời gian phạm tội bị cáo đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại phiên tòa hôm nay, Luật sư bào chữa cho bị cáo T xin xét xử vắng mặt và gửi bản Luận cứ trình bày: đồng ý với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố bị cáo T ra Tòa án để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm c, Khoản 2, Điều 173 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự và tình tiết người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vị của minh theo điểm q, khoản 1, Điều 51 BLHS để cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất (về đề nghị này đại diện VKSND thành phố Bắc Ninh không chấp nhận vì tại kết luận giám định pháp y tâm thần số 83/KL-GĐ ngày 12/3/2020 của Viện pháp y tâm thần Trung ương đã kết luận trước, trong thời gian phạm tội bị cáo đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi).

Các bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh mà nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo, Bản luận cứ của Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của các bị cáo là phù hợp với không gian, thời gian và lời trình bày của người bị hại, lời khai của người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 20/6/2019, tại khu nhà trọ của chị Trần Thị N, ở số nhà 34, Lê Chân, khu 2, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Xuân L, Vũ Anh T, cùng Nguyễn Văn Nghĩa đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, BKS: 36K1-117.62 màu đỏ - đen trị giá 63.000.000 đồng của chị Phạm Thị B và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode, màu vàng nâu, BKS: 99G1-307. 16 trị giá 52.000.000 đồng của chị Trần Thị N nhằm mục đích bán lấy tiền ăn tiêu. Tổng giá trị mà L, T, Nghĩa đã trộm cắp được là 115.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 173 Bộ luật hình sự, vì vậy các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố theo Cáo trạng nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bởi vậy cần phải đưa ra xét xử kịp thời và áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo để giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét về vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm, tuy nhiên là đồng phạm giản đơn, không có sự câu kết, phân công, phân nhiệm chặt chẽ, vai trò của các bị cáo cụ thể như sau:

Bị cáo L và bị cáo T cùng tham gia trộm cắp tài sản. Tuy nhiên bị cáo L là người trực tiếp chuẩn bị phương tiện (xe ô tô) chở T đi trộm cắp tài sản, đứng cảnh giới, sau đó trực tiếp bán tài sản trộm cắp được vì vậy vai trò bị cáo cao hơn bị cáo T. Bị cáo T là người cảnh giới, sau đó điều khiển xe mô tô BKS:

99G1-307.16 trộm cắp được của chị N về Quảng Ninh, vì vậy vai trò của bị cáo thấp hơn bị cáo L.

Về nhân thân: Cả 02 bị cáo đều có nhân thân xấu, cụ thể:

Bị cáo L có 01 tiền án: Tại Bản án số 63/2014/HSST ngày 09/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26 tháng 4 năm 2018, chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này thuộc Tr hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân:

Ngày 13/10/2006, UBND huyện Đông Triều (thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh đưa vào Tr giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng; Tại Bản án số 09/2009/HSST ngày 24/02/2009 của Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Trước ngày phạm tội năm 2014 đã chấp hành xong toàn bộ Bản án.

Bị cáo T có nhân thân: Tại Bản án số 09/2009/HSST ngày 24/02/2009 của Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; Tại Bản án số 77/2013/HSST ngày 23/7/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bía, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tại Bản án số 93/2015/HSST ngày 19/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 10 tháng 6 năm 2017 chấp hành xong hình phạt tù. Bị can đã chấp hành xong toàn bộ Bản án.

Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh là phù hợp. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải xét xử các bị cáo hình phạt tù và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp các bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự:

Chị N và chị B yêu cầu các đối tượng trộm cắp xe mô tô của các chị phải bồi thường cho chị B, chị N số tiền tương ứng với giá trị của những chiếc xe mà các chị bị các đối tượng trộm cắp theo kết luận định giá tài sản.

Xét thấy yêu cầu bồi thường của các bị hại trên là phù hợp quy định của pháp luật. Vì vậy cần buộc L và T phải liên đới bồi thường cho chị B số tiền 63.000.000 đồng, chị N 52.000.000 đồng (mỗi bị cáo phải bồi thường 57.500.000 đồng).

Liên quan trong vụ án này:

Đối với Nguyễn Văn Nghĩa là đối tượng tham gia trộm cắp tài sản cùng T và L, (Nghĩa là người trực tiếp phá khóa cổng và trộm cắp tài sản là 02 chiếc xe mô tô nói trên), hiện Nghĩa đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã ra quyết định truy nã đối với Nghĩa và ra Quyết định tách vụ án hình sự, khi nào bắt được Nghĩa sẽ xử lý sau.

Đối với đối tượng tên Tùng, theo lời khai của các bị cáo khai nhưng các bị cáo không biết con người, tên tuổi, địa chỉ cụ thể của đối tượng tên là Tùng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh chưa xác định được. Khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Đối với anh Kiều Đình Ba, là người cho L thuê chiếc xe ô tô nhãn hiệu Ford, BKS: 14C-288.99, sau đó L dùng chiếc xe trên đi trộm cắp tài sản. Anh Ba không biết L sử dụng xe để đi trộm cắp, đồng thời L cũng không nói với anh Ba là L dùng chiếc xe để đi trộm cắp tài sản, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh không đề cập xử lý gì đối với anh Ba là phù hợp.

Về vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô Honda SH mode, màu vàng nâu, BKS: 99G1-307. 16; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, BKS: 36K1- 117.62 màu đỏ - đen, 01 bình xịt hơi cay, 01 kìm phá khóa và 01 con dao dài khoảng 60cm. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh chưa thu hồi lại được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã ra thông báo truy tìm vật chứng, khi nào thu hồi lại được sẽ xử lý sau.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân L, Vũ Anh T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân L 4 (bốn) năm tù thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Vũ Anh T 3 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 468; Điều 584; Điều 589 Bộ luật Dân sự. Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân L và Vũ Anh T mỗi bị cáo phải bồi thường cho chị Phạm Thị B là 31.500.000đ (ba mươi mốt triệu lăm trăm nghìn đồng) và chị Trần Thị N 26.000.000đ (hai mươi sáu triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người thi hành án không tự nguyện thi hành thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; Nếu không có thỏa thuận thì được thực hiện theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 2.875.000đ đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo, Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2020/HSST ngày 08/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:114/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về