TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ ÔN - TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 114/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 348/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1981 (Có mặt). Địa chỉ ấp T1, xã T2, huyện B, tỉnh Vĩnh Long
- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh N, sinh năm 1979 (Vắng mặt). Địa chỉ ấp T3, xã L, huyện T4, tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai cùng ngày 25/8/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Chị và anh Nguyễn Thanh N thành hôn vào năm 2004 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T2, huyện B, tỉnh Vĩnh Long ngày 31/3/2009.Thời gian vợ chồng chung sống lúc đầu có hạnh phúc, sau thường phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, chị nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt kết quả. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, chị yêu cầu được ly hôn với anh N. Về con chung, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Công M, sinh ngày 09/11/2004 hiện đang sống chung với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn anh Nguyễn Thanh N, đồng thời triệu tập các đương sự đến tham gia phiên hoà giải nhiều lần nhưng phía anh N không trình bày ý kiến bằng văn bản gởi cho Toà án. Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập các đương sự đến tham gia phiên toà nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên toà hôm nay.
Tại biên bản xác minh ngày 25/10/2019 ông Nguyễn Trọng V (cha ruột của anh N) trình bày: Anh N và chị T sau khi thành hôn vợ chồng đi làm tại Thành phố Hồ Chí Minh được 01 thời gian, chị T về quê làm tại Trường mầm non huyện B, tỉnh Vĩnh Long, vợ chồng ít sống gần nhau nên phát sinh mâu thuẩn, ông và gia đình chị T có khuyên răn nhưng vợ chồng anh N không hàn gắn được. Cháu Nguyễn Công M sống chung với chị T, chị T chăm sóc cũng đảm bảo, cho học hành đầy đủ. Ông không có ý gì về việc chị T xin ly hôn do chị T và anh N tự quyết định.
Tại phiên Tòa:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T giữ nguyên ý kiến đã trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Ôn phát biểu:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện cơ bản đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
- Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn không gởi văn bản trình bày ý kiến, không tham gia các phiên hòa giải, phiên họp công khai chứng cứ và phiên tòa là vi phạm quy định tại các điều 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự - Về hướng giải quyết vụ án:
Đề nghị áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5,6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. - Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh N.
- Về con chung: Giao hai con chung tên Nguyễn Công M, sinh ngày 09/11/2004 cho chị Nguyễn Thị Thanh T tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thanh N không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền nghĩa vụ thăm nôm chăm sóc giáo dục con chung, không ai được cản trở.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Thanh T có nghĩa vụ nộp 300.000đ án phí ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự có mặt của đương sự: Bị đơn anh Nguyễn Thanh N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Nguyễn Thanh N thành hôn năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T2, huyện B, tỉnh Vĩnh Long ngày 31/3/2009 nên xem đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẩn do vợ chồng bất đồng qua điểm. Hội đồng xét xử nhận thấy: Thời gian vợ chồng chị T, anh N sống chung có xảy ra mâu thuẩn do vợ chồng ít sống gần nhau, ông Nguyễn Trọng V cha ruột của anh N cũng xác định, anh N, chị T phát sinh mâu thuẩn, gia đình hai bên cũng nhiều lần hàn gắn nhưng không có kết quả. Mặc khác, sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã triệu tập đương sự đến tham gia phiên hòa giải nhiều lần nhằm giúp đỡ chị T, anh N đoàn tụ nhưng anh N không tham gia các phiên hòa giải. Chứng tỏ, anh N không mong muốn vợ chồng đoàn tụ và thống nhất yêu cầu khởi kiện của chị T. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy: mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T, anh N lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Nguyễn Thanh N có 01 con chung tên Nguyễn Công M, sinh ngày 09/11/2004 đang sống chung với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy: Cháu M từ nhỏ sống chung với chị T do chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Trọng V (cha ruột của anh N) cũng thừa nhận chị T chăm sóc nuôi dưỡng cháu M cũng đảm bảo chu đáo và cháu được học hành đầy đủ. Để đảm bảo cho việc phát triển bình thường, ổn định cuộc sống và nguyện vọng của cháu M, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Công M, sinh ngày 09/11/2004 cho chị Nguyễn Thị Thanh T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị Nguyễn Thị Thanh T là người đang trực tiếp nuôi con nhưng chị T không yêu cầu anh N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát có căn cứ chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T
2. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh N.
3. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Công M, sinh ngày 09/11/2004 cho chị Nguyễn Thị Thanh T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh Nguyễn Thanh N không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0015627 ngày 06/9/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Ôn, chị T đã nộp đủ.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Nguyên đơn được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể ngày tuyên án, riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ
Bản án 114/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 114/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trà Ôn - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về