Bản án 114/2018/HNGĐ-ST ngày 20/09/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 114/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 334/2018/TLST-HNGĐ 05/4/2018 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tưởng Thị H, sinh năm 1990; thường trú: Ấp K, xã T, huyện V, tỉnh Đ. Tạm trú: Số 45/21A khu phố Đ1, phường A, thị xã D, tỉnh B. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Thanh S, sinh năm 1988; thường trú: Ấp M, xã T, huyện V, tỉnh Đ. Tạm trú: Số 45/21A khu phố Đ1, phường A, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 23/3/2018 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Tưởng Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Sau thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, chị Tưởng Thị H và anh Huỳnh Thanh S tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2011, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Đ vào ngày 11/5/2011, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59, quyển số 01/2011. Sau khi kết hôn, chị H và anh S sống tại phường A, thị xã D, tỉnh B cho đến nay. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2013 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vấn đề kinh tế, anh S thường xuyên uống bia, rượu và xúc phạm chị H dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Chị H và anh S đã sống ly thân khoảng 01 năm. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị H yêu cầu được ly hôn với anh S.

Về con chung: Qúa trình sống chung, vợ chồng có 02 con chung tên Huỳnh Thanh T, sinh ngày 26/9/2011 và Huỳnh Việt A, sinh ngày 15/9/2015. Sau khi ly hôn, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Huỳnh Thanh S đã được Toà án thông báo tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh S không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố nào, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 27/7/2018, nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 30/8/2018 và ngày 20/9/2018 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tưởng Thị H và anh Huỳnh Thanh S đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Đ vào ngày 11/5/2011, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59, quyển số 01/2011, là hôn nhân hợp pháp. Chị H cho rằng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng khoảng năm 2013 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vấn đề kinh tế, anh Sang thường xuyên uống bia, rượu và xúc phạm chị H dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Chị H và anh S đã sống ly thân khoảng 01 năm. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh S đến làm việc và hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh S không đến Tòa án, điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của chị H và anh S thực sự không còn, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị H yêu cầu được ly hôn với anh Sang là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3] Về con chung: Sau khi ly hôn, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Huỳnh Thanh T, sinh ngày 26/9/2011 và Huỳnh Việt A, sinh ngày 15/9/2015, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, trong thời gian trước đây và hiện nay con chung do chị H trực tiếp nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Mặt khác các cháu hiện còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Do đó, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị H không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của chị nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

 [4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

 [5] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B.

 [6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Tưởng Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tưởng Thị H đối với anh Huỳnh Thanh S về việc ly hôn.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Tưởng Thị H được ly hôn với anh Huỳnh Thanh S.

- Về con chung: Buộc anh Huỳnh Thanh S giao hai cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 26/9/2011 và Huỳnh Việt A, sinh ngày 15/9/2015 cho chị Tưởng Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Tưởng Thị H không yêu cầu anh Huỳnh Thanh S cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, chị H và anh S đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh S lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị H nuôi con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh S theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Chị Tưởng Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số0019145, ngày 03/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh B.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2018/HNGĐ-ST ngày 20/09/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:114/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về