Bản án 1135/2018/DS-PT ngày 29/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1135/2018/DS-PT NGÀY 29/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 475/2018/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án sơ thẩm số 56/2018/DS-ST ngày 22/8/2018 của Tòa án nhân dân Quận H bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4873/2018/QĐPT-DS ngày 22 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lương Thị H, sinh năm 1983;

Địa chỉ: Thôn Y, xã ĐY, huyện CM, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền:

- Bà Nguyễn Thị Mỹ C, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Số 537 BT, Phường M, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Phan Công T, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Số 48 phố BL, tổ C, phường PL, quận HĐ, Thành phố Hà Nội. (Được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 11/7/2017)

(Bà C, ông T có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Hải Y, sinh năm 1982;

Địa chỉ thường trú: C0119, Chung cư 76 NTT, Phường M, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

3. Người làm chứng:

3.1. Bà Trương Thị Nhã U

Địa chỉ: Số 1F đường số 6, cư xá BT, Phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Ông Lương Việt H2

Địa chỉ: Thôn Yên Khê, xã Đại Yên, huyện CH Mỹ, Thành phố Hà Nội.

3.3. Ông Lương Việt T2

Địa chỉ tạm trú: Thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu.

Địa chỉ liên hệ: Số 86 TVT, tổ M, phường TP, Thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong suốt quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Lương Thị H có bà Nguyễn Thị Mỹ C đại diện theo ủy quyền trình bày:

Năm 2015, bà H và bà Nguyễn Hải Y cùng nhau góp tiền mua căn hộ chung cư số 10.07 tầng 11 thuộc Chung cư T, phường BTĐ, Quận H, Thành phố Hố Chí Minh. Do cả hai có mối quan hệ mật thiết nên bà H đã để cho bà Y đứng tên trên hợp đồng mua bán căn hộ và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở căn hộ trên. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận bà H vẫn ở trong căn hộ trên cho đến tháng 8 năm 2016, bà H và bà Y thỏa thuận với bà H sẽ lấy căn hộ và sẽ trả cho bà Y 150.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó bà Y đổi ý và đuổi bà H ra khỏi nhà.

Nay bà H yêu cầu bà Y trả lại số tiền mà bà H đã đóng góp mua căn hộ trên tổng cộng là 463.275.000 đồng, cụ thể:

+ Khoản nợ trả cho bà Trương Thị Nhã U 30.000.000 đồng;

+ Số tiền 140.000.000 đồng bố mẹ bà H cho bà H để góp mua nhà;

+ Số tiền 50.000.000 đồng ông T2 anh ruột bà H chuyển khoản cho bà Y;

+ Số tiền 43.440.000 đồng bà H chuyển khoản cho bà Y;

+ Số tiền 2.500.000 đồng bà H đưa tiền mặt cho bà Y mua rèm cửa;

+ Số tiền bà H rút từ tài khoản ngân hàng đưa trực tiếp cho bà Y mua căn hộ gồm: 49.000.000 đồng rút từ ngân hàng V ngày 08/5/2015, 20.000.000 đồng rút từ ngân hàng S ngày 08/5/2015, 46.000.000 đồng rút từ ngân hàng V ngày 11/5/2015;

+ Đổi 200 USD tại ngân hàng E, tương đương 4.335.000 đồng, đưa trực tiếp cho bà Y;

+ Bà H chuyển khoản cho bà Y 28.000.000 đồng;

+ Rút tiền từ các tài khoản và đưa tiền mặt trực tiếp cho bà Y gồm: 20.000.000 đồng rút từ ngân hàng T ngày 13/12/2015, 17.200.000 đồng rút từ ngân hàng S ngày 06/4/2016, 11.000.000 đồng rút từ ngân hàng V từ ngày 06/4/2016;

+ Bà H đưa 1.800.000 đồng tiền mặt cho bà Y.

Hiện nay bà H độc thân, số tiền trên là của cá nhân bà H không liên quan đến người khác.

Trong suốt quá trình tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Hải Y có bà Nguyễn Thị Như A đại diện theo ủy quyền trình bày:

Năm 2015, bà Y và bà H có chung sống với nhau và cùng góp vốn kinh doanh bán giày qua mạng. Trong quá trình chung sống cả hai có cùng nhau góp tiền trang trải cuộc sống tuy nhiên khoản tiền mua căn hộ chung cư số 10.07 tầng 11, lô A, chung cư T, lô P, phường BTĐ, Quận H là khoản tiền riêng của bà Y dành dụm và vay mượn gia đình, bạn bè và Ngân hàng.

Trong thời gian chung sống, bà Y có nhận từ bà H, bà Y không nhớ rõ. Bà Y đồng ý trả khoản tiền 43.440.000 đồng cho bà H. Còn các khoản khác bà Y không đồng ý vì thực tế bà H không đưa tiền cho bà Y hoặc nếu có chuyển tiền thì không thể hiện việc chuyển tiền để mua căn hộ.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2018/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận H, quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị H.

Buộc bà Nguyễn Hải Y phải trả cho bà Lương Thị H số tiền 151.440.000 đồng gồm các khoản số tiền 30.000.000 đồng bà H trả cho bà Uyển tiền góp mua chung căn hộ, số tiền 50.000.000 đồng ông T2 chuyển khoản cho bà H chuyển khoản ngày 11/5/2015, số tiền 28.000.000 đồng bà H chuyển khoản cho bà Y ngày 12/8/2015 và số tiền 43.440.000 đồng bà H chuyển khoản cho bà Y.

2. Không chấp nhận các khoản tiền nguyên đơn yêu cầu còn lại tổng cộng là 311.835.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về lãi suất chậm trả, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/8/2018, bà Nguyễn Thị Mỹ C đại diện nguyên đơn bà H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bà Châu, ông T là những người đại diện theo ủy quyền của bà H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

- Bị đơn – bà Nguyễn Hải Y vắng mặt.

- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà Nguyễn Hải Y phải trả cho bà Lương Thị H số tiền 151.440.000 đồng là có cơ sở. Bà Châu không cung cấp được chứng cứ mới để chứng minh yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở chấp nhận.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm, sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà Châu, ông T đại diện cho nguyên đơn xin xét xử vắng mặt, bà Y đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản vào khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Hội đồng xét xử T hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Đối với khoản tiền 30.000.000 đồng bà H trả cho bà Uyển, số tiền 50.000.000 đồng ông T2 chuyển khoản cho bà Y, số tiền 28.000.000 đồng bà H chuyển khoản cho bà Y và 43.440.000 đồng bà H chuyển khoản cho bà Y. Tổng cộng là 151.440.000 đồng, các bên không kháng cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Đối với khoản tiền 2.500.000 đồng, bà H đưa tiền mặt cho bà Y mua rèm cửa, bà H không có chứng cứ chứng minh đã đưa số tiền trên cho bà Y. Bà Y cũng không thừa nhận đã nhận.

[4]. Đối với các khoản tiền mà bà H rút từ tài khoản ngân hàng đưa trực tiếp cho bà Y mua căn hộ, như:

+ Số tiền 49.000.000 đồng rút từ ngân hàng V ngày 08/5/2015.

+ Số tiền 20.000.000 đồng rút từ ngân hàng S 08/5/2015.

+ Số tiền 46.000.000 đồng rút từ ngân hàng V ngày 11/5/2015.

+ Số tiền 20.000.000 đồng từ ngân hàng T ngày 13/12/2015.

+ Số tiền 17.200.000 đồng từ ngân hàng S ngày 06/4/2016.

+ Số tiền 11.000.000 đồng từ ngân hàng V từ ngày 06/4/2016.

+ Bà H đổi 200 USD tương đương 4.335.000 đồng đưa trực tiếp cho bà Y.

+ Số tiền 1.800.000 đồng đưa trực tiếp cho bà Y.

Đây là lời khai từ một phía của bà H, nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ chứng minh bà H đã giao tiền cho bà Y. Đồng thời, bà Y không thừa nhận đã nhận các khoản tiền trên.

[5]. Đối với khoản tiền 140.000.000 đồng, nguyên đơn trình bày là tiền mà ông H2 cho bà H để hùn tiền mua căn hộ. Số tiền này ông H2 chuyển thành hai đợt:

Đợt 1: Vào ngày 08/5/2015, ông H2 chuyển 100.000.000 đồng tại Bưu điện CM, bà Lương Thị H là người nhận. Bà H trình bày đã giao lại số tiền trên cho bà Y. Tuy nhiên bà H không có chứng cứ chứng minh, bà Y cũng không thừa nhận có sự việc trên.

Đợt 2: Bà Y trực tiếp nhận số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng tại nhà ông H2. Việc này bà Y không thừa nhận, phía nguyên đơn cho rằng căn cứ vào bảng liệt kê (bút lục 62) có thể hiện “Mượn của bố mẹ 40.000.000 đồng” tuy nhiên bảng liệt kê trên không thể hiện rõ “bố mẹ” là ai. Đồng thời nội dung trên thể hiện tại mục khoản bà Y góp mua nhà và cũng không thể hiện rõ nội dung vay mượn. Nguyên đơn cũng không có chứng cứ nào khác để chứng minh bà Y đã nhận số tiền trên.

[6]. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở chấp nhận.

[7]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử y án sơ thẩm là có cơ sở chấp nhận.

[8]. Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà Lương Thị H phải nộp án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 599, Điều 600 Bộ luật dân sự 2005;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Lương Thị H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm như sau:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị H.

Buộc bà Nguyễn Hải Y phải trả cho bà Lương Thị H số tiền 151.440.000 đồng (Một trăm năm mươi mốt triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Y chậm thanh toán khoản tiền nêu trên thì bà Y phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Không chấp nhận các khoản tiền nguyên đơn yêu cầu còn lại tổng cộng là 311.835.000 đồng (ba trăm mười một triệu tám trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

3. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm bà Lương Thị H phải chịu là 15.591.750 đồng (Mười lăm triệu năm trăm chín mươi mốt nghìn bảy trăm năm mươi đồng), trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp là 11.265.500 đồng theo Biên lai thu số AE/2014/0008346 ngày 28/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận H, bà Lương Thị H còn phải nộp thêm 4.326.250 (Bốn triệu ba trăm hai mươi sáu nghìn hai trăm năm mươi) đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm bà Nguyễn Thị Y phải nộp là 7.572.000 đồng (Bảy triệu năm trăm bảy mươi hai nghìn đồng).

Bà Lương Thị H phải nộp tiền án phí phúc thẩm là 300.000 đồng, trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số AA/2014/0015570 ngày 12/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Quận H, bà Lương Thị H đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1135/2018/DS-PT ngày 29/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:1135/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về