TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 113/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 12 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:118/2020/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 7 năm 2020, về việc:“Tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2021/QĐXX-HN ngày 10 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thanh D, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn An H, xã P, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
2. Bị đơn: Lê Tấn D1, sinh năm 1994; nơi cư trú: Khu phố C, TT. T, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Nguyên đơn vắng mặt (có đơn xin vắng mặt), bị đơn vắng mặt (lần 02).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ của bên nguyên đơn Nguyễn Thị Thanh D trình bày:
Chị D quê ở thôn H, xã P, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định; chị D và anh D1 quen nhau lúc còn học phổ thông, hai người đăng ký kết hôn tại UBND xã P năm 2014, hoàn toàn tự nguyện. Sau khi cưới, chị D về sống với anh D1 tại nhà cha mẹ anh D1 (Lê Văn Đ, Nguyễn Thị P), tại thôn G, thị trấn T, huyện Hoài Ân và có 01 con chung tên Lê N, sinh ngày 17/12/2014, hiện chị D và con chung vẫn còn khẩu tại thôn H, xã P.
Nguyên nhân chị D ly hôn: Anh D1 luôn ăn nhậu say, gây cãi với vợ, không lo cho con, làm có tiền đều tiêu xài hết, vợ nói thì đánh vợ, hiện nay anh D1 làm công nhân Công Ty dệt vải ở Bình Chánh - TP. Hồ Chí Minh, còn chị D làm nghề buôn bán dụng cụ học sinh tại nhà bà ngoại (Nguyễn Thị T) ở Ân Thạnh. Chị D và anh D1 không sống chung đã 02 năm nay, chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn anh Lê Tấn D1. Chị D và anh D1 có liên lạc qua điện thoại chứ không gặp trực tiếp, theo chị D được biết, anh D1 thi thoảng có về nhà, nhưng rồi lại đi, chị D gửi đơn khởi kiện ly hôn đến Tòa án thì anh D1 có biết, lần anh D1 về nhà gần đây là ngày 07/3/2021, anh D1 nói không về, chị D cứ kiện hay làm gì thì tùy. Về con chung, chị D yêu cầu nuôi con chung tên Lê N, sinh ngày 17/12/2014, tự nguyện không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng. Về tài sản chung, chị D không yêu cầu giải quyết.
- Bên bị đơn, anh Lê Tấn D1: Từ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đến ngày mở phiên tòa sơ thẩm, anh D1 không đến Tòa án, không có lời khai.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phát biểu:
+ Về trình tự tố tụng: Thẩm phán giải quyết vụ án, thư ký tiến hành tố tụng, Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Thẩm phán còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án.
+ Về hướng giải quyết: Có cơ sở để chấp nhận khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn. Về con chung: Giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng, không giải quyết phần cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, các bên không yêu cầu giải quyết; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua xem xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Chị D quê ở thôn H, xã P, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định đăng ký kết hôn với anh Lê Tấn D1 tại UBND xã P năm 2014, hoàn toàn tự nguyện, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới, chị D về sống với anh D1 tại nhà cha mẹ anh D (Lê Văn Đ, Nguyễn Thị P), ở thôn C, thị trấn T, huyện Hoài Ân và có 01 con chung tên Lê N, sinh ngày 17/12/2014, hiện chị D và con chung vẫn còn khẩu tại thôn H, xã P là thực tế.
Theo chị D: Trong quá trình chung sống, anh D1 luôn ăn nhậu say, gây cãi với vợ, không lo cho con, làm có tiền đều tiêu xài hết, vợ nói thì đánh vợ, hiện nay anh D1 làm công nhân Công Ty dệt vải ở Bình Chánh - TP. Hồ Chí Minh, còn chị D làm nghề buôn bán dụng cụ học sinh tại nhà bà ngoại (Nguyễn Thị T) ở xã T. Chị D và anh D1 không sống chung đã 02 năm nay, chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn anh Lê Tấn D. Về con chung, chị D yêu cầu nuôi con chung tên Lê N, sinh ngày 17/12/2014, tự nguyện không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng. Về tài sản chung, chị D không yêu cầu giải quyết.
- Về thẩm quyền, quan hệ pháp luật: Tòa án thụ lý sơ thẩm vụ án và xác định đây là “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Về trình tự tố tụng: Tòa án đã thực hiện thủ tục giao nhận tài liệu, chứng cứ; thu thập chứng cứ. Tổ chức phiên họp tiếp cận, công khai tài liệu chứng cứ; hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về quyền, nghĩa vụ của đương sự: Tòa án đã thông báo, tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định; giải thích các quy định của pháp luật, bị đơn anh Lê Tấn D1 không yêu cầu phản tố. Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt; Hội đồng xét xử áp dụng Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án.
[2]. Xét yêu cầu của nguyên đơn, chị Nguyễn Thị Thanh D:
- Về hôn nhân: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị D và anh D1 đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và thực tế hai người không sống chung đã trên 02 năm nay, nên có kéo dài mối quan hệ vợ chồng thì mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Tại Tòa án, chị D xác định không còn tình cảm với anh D1, chị D xin ly hôn anh Lê Tấn D1 là có cơ sở; Hội đồng xét xử chấp nhận.
- Về con chung: Chị D yêu cầu nuôi dưỡng con chung Lê N phù hợp với điều kiện thực tế, chị D xác định anh D1 không có mặt tại địa phương nên không có khả năng cấp dưỡng, chị D có thu nhập và tự nguyện không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng nuôi con chung là có cơ sở; Hội đồng xét xử chấp nhận.
- Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu giải quyết.
[3]. Xét ý kiến của bị đơn, anh Lê Tấn D1:
- Từ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đến ngày mở phiên tòa sơ thẩm, anh Duy không đến Tòa án, không có lời khai.
- Tòa án đã tiến hành các thủ tục thông báo, tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng anh D1 không có mặt là tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ của anh D1 trước pháp luật; Hội đồng xét xử áp dụng Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án.
[4]. Phát biểu của Kiểm sát viên: Về trình tự tố tụng là đảm bảo, vụ án còn vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử nên ghi nhận. Về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[5]. Từ các căn cứ nêu trên; Hội đồng xét xử giải quyết như sau:
- Chấp nhận yêu cầu của chị D được ly hôn anh D1.
- Về nuôi con chung: Giao con chung tên Lê N cho chị D nuôi dưỡng; anh D1 không cấp dưỡng nuôi con chung; anh D1 được quyền thăm nom, săn sóc con chung.
- Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu giải quyết.
[6]. Về án phí sơ thẩm ly hôn: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên buộc chị Diễm nộp án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 235, khoản 1 Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng vào các Điều 51, 53, 54, 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thanh D được ly hôn anh Lê Tấn D1.
- Về nuôi con chung: Giao con chung tên Lê N, sinh ngày 17/12/2014 cho chị D nuôi dưỡng, anh D1 không cấp dưỡng nuôi con chung; anh D1 được quyền thăm nom, săn sóc con chung.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
- Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu giải quyết.
2. Về án phí sơ thẩm ly hôn:
Chị Nguyễn Thị Thanh D nộp 300.000 đồng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0006175 ngày 10/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Ân.
3. Các bên đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án 113/2021/HNGĐ-ST ngày 12/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 113/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về