Bản án 113/2020/HS-ST ngày 28/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N T, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 113/2020/HS-ST NGÀY 28/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện NT xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Quốc K, sinh năm 1999 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 4, xã Long Thọ, huyện NT, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn B, sinh năm 1969 và bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1978; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/6/2020. Bị cáo có mặt.

- Người làm chứng:

Ông Huỳnh Minh T, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố P, thị trấn H, huyện NT, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 09/6/2020, Võ Quốc K đang ở nhà tại ấp 4, xã L, huyện NT thì được một người bạn (không rõ nhân thân) gọi điện thoại cho K hỏi “Có lấy đồ không”, có nghĩa là hỏi K có mua ma túy không? K trả lời là “Có lấy 5 xị”, có nghĩa là K mua 500.000đ ma túy và hẹn giao ở đầu hẻm đi vào nhà K.

Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60C2- 241.10 đi ra đầu hẻm để lấy ma túy. Khi tới nơi, K dùng điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng gold có sim 0799896853 gọi lại cho người thanh niên để nhận ma túy thì người thanh niên đó nói “Tao để trong gói thuốc lá Jet ở đầu đường” nên K tìm xung quanh thì thấy 01 gói thuốc lá Jet màu trắng, K mở ra bên trong có 01 gói nylon kích thước 2 x 3cm bên trong có chứa ma túy. Khi nhận được ma túy thì K gọi điện thoại lại cho người thanh niên báo đã nhận ma túy và người thanh niên đó nói với K “Chiều khoảng 17 giờ sẽ có người tới lấy tiền”. Sau đó, K cất giấu ma túy vào túi quần trước bên trái rồi về nhà lấy quần áo đi ra thị trấn H để sửa. Lúc này, K điều khiển xe mô tô trên đi tới đường hẻm thuộc khu phố P, thị trấn H thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện túi quần phía trước, bên trái của K cất giấu 01 gói nylon kích thước 2 x3cm, đã hàn kín hai đầu, bên trong chứa ma túy. Tổ công tác đưa K cùng tang vật về trụ sở Công an thị trấn Hlập biên bản phạm tội quả tang.

Tang vật thu giữ gồm:

+ 01 gói nylon hàn kín có kích thước 2 x 3cm, bên trong chứa cát hạt tinh thể rắn, màu trắng.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung gắn sim 0799896853 + 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu trắng- đen – bạc biển số: 60C2-241.10. Tại bản kết luận giám định số 1173/KLGĐ-PC09 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong trên bao bì có các chữ ký ghi họ tên và tên Võ Quốc K, Huỳnh Thanh Danh và hình dấu tròn màu đỏ Công an thị trấn H, huyện NT gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,3892 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 116/CT.VKS-NT ngày 18/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện NT đã truy tố bị cáo Võ Quốc K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NT, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Võ Quốc K từ 12 đến 14 tháng tù.

+ Về biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, 01 sim điện thoại số 0799896853. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung màu vàng gold.

Bị cáo Võ Quốc K không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện NT.

Lời nói sau cùng của bị cáo Võ Quốc K tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NT, Viện kiểm sát nhân dân huyện NT, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Người làm chứng là ông Huỳnh Minh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, ông T đã có lời khai tại hồ sơ và việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 và Điều 293 tiến hành xét xử vắng mặt ông Thái.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Võ Quốc K đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào lúc 15 giờ 00 phút ngày 09/6/2020 tại ấp 4, xã Long Thọ, huyện NT, Võ Quốc K đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,3892gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Võ Quốc K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện NT đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, bị cáo khai việc làm và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Võ Quốc K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật (ma túy) còn lại sau giám định và 01 sim điện thoại số 0799896853. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung màu vàng gold là phương tiện của bị cáo K sử dụng vào việc phạm tội.

[8] Đối với người bán ma túy cho bị cáo K do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NT tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[9] Đối với xe mô tô mô tô hiệu Wave biển số: 60C2-241.10 là tài sản của bà Huỳnh Thị T cho bị cáo K mượn nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện NT đã trả lại cho bà T là đúng quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Bị cáo Võ Quốc K phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ Quốc K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Võ Quốc K 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày 09/6/2020.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung, màu vàng gold của Võ Quốc K.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định (ma túy còn lại sau giám định) số 1173/KLGĐ- PC09 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 sim điện thoại số 0799896853.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện NT đang lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/9/2020).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Võ Quốc K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2020/HS-ST ngày 28/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:113/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về