Bản án 113/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

 BẢN ÁN 113/2020/HS-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 04 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 112/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Ngô Văn H, sinh ngày 08 tháng 8 năm 1994 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn M (đã chết) và bà Lưu Thị S; Chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa từng bị kết án, xử lý hành chính, xử lý kỷ luật; bị bắt, tạm giam từ ngày 17/4/2020 cho đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hoàng Thị T1, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Chị Ngô Thị T; Vắng mặt.

+ Ông Hoàng Văn T2; Có mặt.

+ Ông Ngô Văn T3. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 50 phút ngày 17/4/2020 tại khu vực trước cổng Uỷ ban nhân dân xã Q, QL K, thôn Q1, xã Q, thành phố L, tổ công tác Công an thành phố L bắt quả tang Ngô Văn H đang thực hiện tội phạm về ma túy và thu giữ trong lòng bàn tay trái của Ngô Văn H 06 gói nilon bên trong là gói giấy có dòng kẻ đều chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy; 01 xe mô tô biển kiểm soát 12D1- 248.36, 01 điện thoại Nokia cùng 02 sim điện thoại 0367659758, 0977180938;

01 ví giả da màu nâu; 01 chứng minh nhân dân mang tên Ngô Văn H; 01 giấy đăng ký xe mang tên Phùng Chắn D; 01 giấy phép lái xe tên Ngô Văn H và 48.000đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Ngô Văn H khai nhận: Hồi 07 giờ 30 phút ngày 17/4/2020, H một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12D1-248.36 đến khu vực ngã tư M, phường V, thành phố L thì gặp B quen biết từ trước. B đưa cho H 01 sim điện thoại số 0367.659.758 cùng 400.000đ và dặn H lắp sim này vào điện thoại của H, nếu có ai hỏi mua ma túy thì H đi mua ma túy bán lẻ cho người hỏi mua, H đồng ý và lắp sim điện thoại 0367.659.758 vào máy của H. Khoảng 09 giờ cùng ngày, H nhận được tin nhắn từ số điện thoại 0334.204.161 gửi đến số 0367.659.758 với nội dung hỏi mua 03 - 04 gói ma túy, H gọi điện vào số điện thoại trên thì nghe thấy một người đàn ông hỏi mua 04 gói ma túy Heroine, hẹn giao dịch tại khu vực cổng Trường cấp 2 xã Q, thành phố L, H đồng ý và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12D1-248.36 đến khu vực đường N, phường V, thành phố L mua với 01 người phụ nữ (không rõ tên tuổi, địa chỉ) 06 gói ma túy Heroine với giá 480.000đ. Sau khi mua xong, H cầm 06 gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi đến địa điểm đã hẹn để bán cho người đàn ông có số điện thoại 0334.204.161, khi đi đến thôn Q1, xã Q, thành phố L thì H bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 57/KL-PC09 ngày 18/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 06 gói giấy nhỏ màu trắng thu giữ của Ngô Văn H gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,229 gam (đã trừ bì).

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12D1-248.36 thu giữ của Ngô Văn H, quá trình điều tra cơ quan điều tra xác định chiếc xe trên là của Ngô Văn T3, H mượn xe của T3 để đi lại, việc H sử dụng chiếc xe để phạm tội T3 không biết, do đó ngày 03/6/2020 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe và giấy đăng ký xe tên Phùng Chắn D cho anh T3, sau khi nhận lại tài sản anh T3 không có ý kiến gì.

Tại Cáo trạng số 113/CT-VKS-MT ngày 14/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Ngô Văn H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Người làm chứng Ngô Văn T3 trình bày anh có được cho bị cáo Ngô Văn H mượn xe máy biển kiểm soát 12D1-248.36 để đi làm, anh không biết bị cáo sử dụng xe máy của anh để đi mua ma túy, nay anh T3 đã nhận lại chiếc xe máy cùng giấy đăng ký xe nên không có ý kiến gì.

Người làm chứng Hoàng Văn T2 trình bày bản thân được chứng kiến Công an bắt quả tang bị cáo Ngô Văn H cùng toàn bộ 06 gói ma túy, ngoài ra ông không biết gì thêm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Ngô Văn H từ 24 tháng đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; 01 ví giả da do không còn giá trị sử dụng; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số seri 3589989091983 và 358998091941982 lắp kèm 02 sim 0367.659.758, 0977.180.938; Trả lại cho bị cáo 01 phong bì niêm phong sau giám định bên trong có 48.000đồng; 01 chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe tên Ngô Văn H do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Đối với hành vi phạm tội, tại phiên tòa hôm nay và quá trình điều tra bị cáo Ngô Văn H đã thành khẩn khai báo, nay ăn năn hối cải với hành vi mình gây ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đề nghị truy tố bị cáo với tội danh Mua bán trái phép chất ma túy là đúng. Tuy nhiên, về mức hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân bị cáo để quyết định, bản thân bị cáo không nghiện ma túy, là người lao động thật thà nên đã tin tưởng người đàn ông tên B mà thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội với tính chất cơ hội, nể nang chứ không có mục đích mua bán ma túy từ ban đầu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Ngô Văn H ở đầu khung hình phạt là 24 tháng tù để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Bị cáo không có ý kiến bổ sung, lời nói sau cùng bị cáo trình bày biết mình sai, xin được giảm nhẹ mức hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội, trở thành người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng Ngô Thị T nhưng trước đó người vắng mặt đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với lời khai của người tham gia tố tụng khác, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 17/4/2020 tại khu vực thôn Q1, xã Q, thành phố L, Ngô Văn H có hành vi tàng trữ 0,229 gam ma túy Heroine (đã trừ bì), mục đích để bán trái phép chất ma túy cho người khác nhằm kiếm lời. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ căn cứ để xác định bị cáo phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm băng hoại đạo đức xã hội và là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để kiếm lời thu lợi bất chính.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân: Bị cáo Ngô Văn H có nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, nhận thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và để phòng ngừa chung.

[7] Bị cáo không có nghề nghiệp vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

[8] Đối với người tên B và người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý trong vụ án, Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Đối với số thuê bao 0367.659.758 B đưa cho H, và số thuê bao 0334.204.161 giao dịch mua ma túy với H, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh làm rõ chủ sở hữu các thuê bao trên đều cư trú tại thành phố Hà Nội nhưng hiện các chủ thuê bao này không có mặt tại địa phương nên chưa có căn cứ xác định các chủ thuê bao trên liên quan đến hành vi phạm tội, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về việc xử lý vật chứng: Đối với số ma túy heroin còn lại sau khi giám định thu giữ của bị cáo, là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số seri 3589989091983 và 358998091941982 lắp kèm 02 sim 0367.659.758, 0977.180.938 bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; số tiền 48.000đồng và ví da màu nâu, 01 chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe tên Ngô Văn H xác định không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12D1-248.36 và 01 giấy đăng ký xe mang tên Phùng Chắn D, anh Ngô Văn T3 đã được cơ quan điều tra trả lại, sau khi nhận anh không có ý kiến gì, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38, 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a, c khoản 1 điều 47 của bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Ngô Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Ngô Văn H 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/4/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định;

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, cũ, đã qua sử dụng số seri 1: 358998090941983, số seri 2: 358998091941982 lắp kèm 02 sim số 0367.659.758 và 0977.180.938.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Văn H 01 (một) ví giả da màu nâu; 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 48.000đ (bốn mươi tám nghìn đồng); 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 0823536664 tên Ngô Văn H và 01 (một) giấy phép lái xe số 240173025057 hạng A1 tên Ngô Văn H.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng 14/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 113/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:113/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về