TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 113/2019/HSST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2019/HSST ngày 03 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Lò Văn Đ; tên gọi khác: Không; sinh ngày 16/9/1991 tại xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Bản Hậu, xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông Lò Văn Khiêm, sinh 1960 và bà Lò Thị Điêu, sinh năm 1964; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không có; bắt tạm giam từ ngày 28/5/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 00 phút ngày 28/5/2019 Tổ cô ng tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, Sơn La, phát hiện bắt quả tang Lò Văn Đ, sinh 1991 trú tại bản Hậu, xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói ni lông màu trắng bên trong có chứa bột cục màu trắng và 01 viên nén màu hồng hình trụ tròn, theo Lò Văn Đ khai là heroine và ma túy tổng hợp.
Hồi 14 giờ 00 phút ngày 28/5/2019, Công an huyện Thuận Châu, phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh số bột màu trắng và 01 viên nén màu hồng hình trụ tròn thu giữ của Lò Văn Đ và xác định được khối lượng: số bột màu trắng có khối lượng là 0,12 gam, rút toàn bộ đánh ký hiệu Đ1; 01 viên nén màu hồng hình trụ tròn có khối lượng 0,10 rút toàn bộ đánh ký hiệu Đ2. Các mẫu Đ1, Đ2 gửi Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La để giám định chất ma túy ( BL 25 – 26 hồ sơ ).
Tại Kết luận giám định số: 979/KLMT ngày 30/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
- Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ1 là chất ma túy; Loại chất heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam.
- Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ2 là chất ma túy; Loại chất methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam.
- Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,12 gam loại chất heroine và 0,10 gam loại chất methamphetamine. ( BL 27 hồ sơ ).
Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Quá trình điều tra Lò Văn Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 28/5/2019 Lò Văn Đ thuê xe ôm đi từ bản Hậu, xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La đến xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Lò Văn Đ gặp một người đàn ông dân tộc thái (Đ không biết tên và đ ịa chỉ ở đâu), khi gặp người đàn ông Đ đã hỏi mua được của người đàn ông một viên ma túy tổng hợp và một lượng hêroin hết số tiền 70.000 đồng, sau khi mua được ma túy Đ cất gói ma túy vào túi quần phía trước bên phải rồi đi bộ ra đường quốc lộ 6A, khi Đ đi đến đầu bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang. ( BL 31 – 42 hồ sơ ).
Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can; b iên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án để lấy mẫu giám định; kết luận giám định.
Bản cáo trạng số 116/CT-VKS ngày 03-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Lò Văn Đ về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS Tại phiên toà, đại d iện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lò Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, đ iểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn Đ từ 15 tháng đến 20 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 28-5-2019 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ).
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy: một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Đ – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 09/5/2019; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Lời nói sau cùng của bị cáo Lò Văn Đ: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, c ăn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dụng: Vào hồ i 10 giờ 00 phút ngày 28/5/2019 tại khu vực bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, Sơn La bị cáo Lò Văn Đ có hành vi cất giữ trái phép 0,22 gam ma túy (trong đó 0,12 gam chất heroine và 0,10 gam chất methamphetamine) trong người thì bị Tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Đ giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với:
Lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 10 giờ 00 phút ngày 28/5/2019, bản kết luận giám định số 979/KLMT ngày 30/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã Hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã Hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù giam đối với bị cáo Lò Văn Đ.
[4] Xét nhân thân bị cáo là người chưa có tiền án, có 01 tiền sự (năm 2017 bị xử 750.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng, đã xóa tiền sự), có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy mà vẫn cố ý phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma túy. Cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tàng trữ ma túy với số lượng không lớn, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
[6] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự
[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy không có tài sản nên không có khả năng thi hành án nên miễn hình phạt bổ xung là phạt tiền cho bị cáo.
[8] Về vật chứng: Đối với 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.
[9] Đối với nguồn gốc số hêroine đã thu giữ theo Lò Văn Đ khai là mua của một người đàn ông dân tộc thái ( Đ không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ), địa điểm mua là ở bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, Đ mua hết số tiền 70.000 đồng. Do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông nên Cơ quan Điều tra không có căn cứ để làm rõ.
[10] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự
[11] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và đ iểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hinh sự:
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
- Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ: 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 28/5/2019 (là ngày bắt giam giữ bị cáo).
Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Đ – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 28-5-2019; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng
4. Quyền kháng cáo Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015 báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 113/2019/HSST ngày 03/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 113/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về