TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 113/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Hôm nay, ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 2677/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/6/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 209/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15/7/2019 giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Lý Lan A, sinh năm 1984.
Địa chỉ: A1/167B, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Công T, sinh năm 1987.
Địa chỉ: 129/25, tổ 16, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
(Bà A, ông T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/10/2018, bản tự khai, trong quá trình làm việc, nguyên đơn bà Lý Lan A trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Công T tự nguyện chung sống với nhau và đăng ký kết hôn vào năm 2010, tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bà phát hiện ông T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên bà đã đưa 02 con về nhà mẹ ruột của bà sống và sống ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Năm 2017, bà có làm đơn xin ly hôn với ông T nhưng cũng thời gian đó bà được Công ty đưa sang Nhật làm việc 01 năm nên bà đã rút đơn ly hôn. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà xin ly hôn với ông T để trả tự do cho nhau.
Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 24/12/2011 và Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 27/3/2016. Ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 cháu và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn ông Nguyễn Công T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt, không có bản tự khai nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông T.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Về thủ tục tố tụng: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, kể từ khi thụ lý vụ án là phù hợp, đúng với quy định của pháp luật. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan hệ hôn nhân: Xét cuộc sống vợ chồng của bà A, ông T không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do đó bà A yêu cầu ly hôn với ông T là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 24/12/2011 và Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 27/3/2016 cho bà A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm thời ông T không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Do chưa có lời khai của ông T nên tách ra giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác nếu sau này các bên có yêu cầu.
Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà A phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
* Sau khi nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về thẩm quyền: Bà A xin ly hôn với ông T có địa chỉ cư trú tại: 129/25, tổ 16, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa có thẩm quyền giải quyết.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Anh có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Thiện đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Anh, ông Thiện theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà A, ông T kết hôn với nhau vào năm 2010, tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đ, theo giấy chứng nhận kết hôn số: 31, quyển số 01 ngày 25/3/2010 nên xác định là hôn nhân hợp pháp.
Bà A trình bày: Sau khi xây dựng gia đình với nhau, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bà phát hiện ông T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nay bà thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà xin ly hôn với ông T.
Tòa án đã nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập ông T đến Tòa làm việc nhưng ông T vẫn vắng mặt không lý do, không có ý kiến phản hồi thể hiện việc ông T không tích cực trong việc hòa giải, hàn gắn quan hệ vợ chồng, không thiết tha cuộc sống hôn nhân với bà A. Qua kết quả xác minh tại nơi cư trú ngày 09/4/2019 thì địa phương cho biết vợ chồng ông T, bà A đã sống ly thân khoảng cuối năm 2018 cho đến nay.
Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng ông T, bà A là có thật, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Anh, giải quyết cho bà A được ly hôn với ông T để trả tự do cả hai là phù hợp.
- Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 24/12/2011 và Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 27/3/2016. Ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 cháu và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, ông T không đến Tòa làm việc nên không ghi nhận được ý kiến của ông T. Từ khi ly thân, các cháu ở cùng với bà A, được bà A chăm sóc ổn định về mọi mặt; các cháu còn nhỏ, cần có sự chăm sóc của người mẹ để không ảnh hưởng đến tâm sinh lý, điều kiện ổn định phát triển mọi mặt của các cháu nên giao cháu Minh T và Minh T cho bà A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp. Tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Do chưa có lời khai của ông T nên tách ra giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác nếu sau này các đương sự có yêu cầu.
- Về án phí: Bà A phải nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228, 233, 235, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84, 110 Luật Hôn nhân và gia đình.
Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu “Ly hôn” của bà Lý Lan A.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý Lan A được ly hôn với ông Nguyễn Công T.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 24/12/2011 và Nguyễn Ngọc Minh T, sinh ngày 27/3/2016 cho bà Lý Lan A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm thời ông Nguyễn Công T không cấp dưỡng nuôi con.
Vì không trực tiếp chăm sóc, giáo dục con chung nên ông T được quyền thăm nom con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của trẻ, khi cần thiết ông bà có quyền yêu cầu thay đổi vị trí nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác nếu sau này các bên có yêu cầu.
4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lý Lan A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa theo biên lai thu số 009867 ngày 06/12/2018.
5. Bà Lý Lan A và ông Nguyễn Công T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 113/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về