Bản án 112/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 112/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2019/QĐXXST–HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đình P, tên gọi khác: Bi, sinh ngày 02 tháng 6 năm 1994 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi cư trú: Tổ 39 phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đình Ph và bà Nguyễn Thị L (đều còn sống).

Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 07 tháng 6 năm 2017, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 15 tháng tại Quyết định số 63/2017/QĐ-TA. Chấp hành xong ngày 13 tháng 4 năm 2018.

Nhân thân: Ngày 17 tháng 9 năm 2014, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 112/2014/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 28 tháng 5 năm 2019, tạm giam ngày 06 tháng 6 năm 2019. Có mặt

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974; Địa chỉ: Tổ 39 phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ, ngày 26 tháng 5 năm 2019, Nguyễn Đình P đi đến ngã tư đường Ngô Quyền – Nguyễn Phan Vinh, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng gặp và mua 01 gói ma túy đá với giá 1.500.000 đồng của một thanh niên tên Sỹ (không rõ nhân thân, lai lịch) rồi đem về giấu tại phòng ngủ tầng 2, nhà số K306/02 đường C, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng 19 giờ, ngày 28 tháng 5 năm 2019, có một thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch liên lạc hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá thì P đồng ý và hẹn bán tại kiệt số 114 đường Lê Đình Lý, phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Lúc này, P lấy một ít ma túy từ trong gói ma túy đã mua, bỏ vào 01 gói nylong nhỏ hơn rồi cất giấu trong người và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 43D1-760.53 đi đến trước số nhà K114/4 đường Lê Đình Lý, thành phố Đà Nẵng. Đến 21 giờ ngày 28 tháng 5 năm 2019, P bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng kiểm tra, do hoảng sợ nên P vứt gói ma túy đá xuống đất và bỏ chạy được khoảng 100m thì bị bắt quả tang. Thu giữ tại dưới nền đường trước nhà số K114/4 đường Lê Đình Lý, thành phố Đà Nẵng có 01 gói nylong kích thước 03cm x 02cm chứa tinh thể màu trắng mà P vừa ném xuống đất (được niêm phong, ký hiệu là G).

Vào lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của P tại K306/02 đường C, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng, thu giữ tại phòng ngủ tầng hai có 01 gói nylong kích thước 04cm x 07cm chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong, ký hiệu là G1).

Bản kết luận giám định số 152/GĐ-MT ngày 03 tháng 6 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong gói nylong được niêm phong, ký hiệu G, G1 gửi giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng tinh thể mẩu G: 0,208 gam; mẫu G1: 0,900 gam.

Vật chứng tạm giữ:

- 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 152/GĐ-MT ngày 03 tháng 6 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng;

- 01 điện thoại di động hiệu Sony, màu đen; số Imei: 35606007589466, gắn sim số 0934.844.869; Số tiền 200.000 đồng; 01 cân điện tử màu đỏ trắng có chữ “Manlloro”; 01 bình nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút nhựa; 01 nỏ thủy tinh; 01 bình gas mini có chữ “Max”; 01 đầu khò màu đen; 10 vỏ bao nylong kích thước 03cm x 03cm và 10 vỏ bao nylong kích thước 04cm x 07cm;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 43D1-760.53. Qua xác minh, xe thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị L, mẹ ruột của P, bà L không biết P mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên ngày 02 tháng 8 năm 2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho bà L.

- 01 thanh kim loại màu đen dài 55cm, trong đó phần cán bằng nhựa cứng màu đen dài 10cm, phần lưỡi bằng kim loại màu đen dài 45cm, đã được niêm phong ký hiệu là C1;

- 01 thanh kim loại hình trụ tròn màu đen dài 35cm, đường kính 03cm, một đầu có gắn đèn pin và phần kim loại lồi ra ngoài, đã được niêm phong ký hiệu là C2;

- 01 bình nhựa màu xanh có nút bấm, hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 03cm, có dòng chữ “NATO”, được niêm phong ký hiệu là C3;

- 01 thanh nhựa cong màu đen dài 15cm có nút bấm và dòng chữ “30KV”, 01 đầu có chỗ cắm nguồn điện vào, một đầu lõm vào 02cm cùng với 04 vật bằng nhựa màu đen hình hộp chữ nhật kích thước 05cm x 05cm x 03cm, được niêm phong ký hiệu C4;

Bản kết luận giám định số 63/GĐ-VK ngày 25 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Thanh kim loại gửi giám định, ký hiệu C1 là vũ khí thô sơ; Các mẫu vật gửi giám định, ký hiệu C2, C3 và C4 là công cụ hỗ trợ; Trong đó: Thanh kim loại ký hiệu C2 là dùi cui điện; Bình xịt, ký hiệu C3 là bình xịt hơi cay; Thanh nhựa cùng 04 khối nhựa, ký hiệu C4 là súng bắn điện.

Qua xác minh, Nguyễn Đình P chưa có tiền án, tiền sự về hành vi tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ, nên ngày 15 tháng 8 năm 2019, Ủy ban nhân dân quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3035/QĐ-XPVPHC đối với P về hành vi “Tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép” bằng hình thức phạt tiền, đồng thời xử phạt bổ sung: Tịch thu 01 thanh kim loại màu đen dài 55cm; 01 thanh kim loại hình trụ tròn màu đen dài 35cm; 01 bình nhựa màu xanh có nút bấm; 01 thanh nhựa cong màu đen có nút bấm cùng 04 khối nhựa.

Kết quả xét nghiệm: Nguyễn Đình P dương tính với ma túy.

Tại Cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Đình P mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù giam.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tch thu tiêu hủy:

- 01 bì niêm phong đựng toàn bộ mẫu bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 152/GĐ-MT ngày 03 tháng 6 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng;

- 01 cân điện tử màu đỏ trắng có chữ “Manlloro”; 01 bình nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút nhựa; 01 nỏ thủy tinh; 01 bình gas mini có chữ “Max”; 01 đầu khò màu đen; 10 vỏ bao nylong kích thước 03cm x 03cm và 10 vỏ bao nylong kích thước 04cm x 07cm.

Tch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động hiệu Sony, màu đen; số Imei: 35606007589466, gắn sim số 0934.844.869.

Trả lại cho Nguyễn Đình P số tiền 200.000 đồng nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Đình P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Vào lúc 21 giờ, ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại trước số nhà K114/4 đường Lê Đình Lý, phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Đình P có hành vi cất giấu trái phép 0,208 gam ma túy loại Methamphetamine để chuẩn bị bán cho người khác thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang. Ngoài ra, khám xét khẩn cấp nơi ở của P tại K306/02 đường C, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng thu giữ 0,900 gam ma túy loại Methamphetamine mà P cất giấu trái phép nhằm mục đích để sử dụng và bán cho người khác để kiếm lời.

Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Đình P đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Đình P có tính chất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy đang là tệ nạn của xã hội, là nguyên nhân của các tội phạm khác gây mất an ninh trật tự, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của con người, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhưng vì lợi nhuận bị cáo đã phạm tội. Do vậy, cần phải xét xử nghiêm, hình phạt đối với bị cáo phải thỏa đáng và tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự áp dụng cho bị cáo để giảm nhẹ mức hình phạt.

Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng về tội danh, mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì niêm phong đựng toàn bộ mẫu bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 152/GĐ-MT ngày 03 tháng 6 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, là tang vật vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 cân điện tử màu đỏ trắng có chữ “Manlloro”; 01 bình nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút nhựa; 01 nỏ thủy tinh; 01 bình gas mini có chữ “Max”; 01 đầu khò màu đen; 10 vỏ bao nylong kích thước 03cm x 03cm và 10 vỏ bao nylong kích thước 04cm x 07cm là những vật dụng để sử dụng, mua bán trái phép chất ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Sony, màu đen; số Imei: 35606007589466, gắn sim số 0934.844.869. Điện thoại trên Nguyễn Đình P sử dụng để liên lạc với người mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Số tiền 200.000 đồng thu giữ của P, xét thấy đây là tiền cá nhân của P nên cần trả lại nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 43D1-760.53. Qua xác minh, xe thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị L, mẹ ruột của P, bà L không biết P mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên ngày 02 tháng 8 năm 2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho bà L. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản trên cho bà L phù hợp với các quy định của pháp luật nên không đề cập.

- Nguyễn Đình P có hành vi tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ, nên ngày 15 tháng 8 năm 2019, Ủy ban nhân dân quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3035/QĐ-XPVPHC đối với P về hành vi “Tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép” bằng hình thức phạt tiền, đồng thời xử phạt bổ sung: Tịch thu 01 thanh kim loại màu đen dài 55cm; 01 thanh kim loại hình trụ tròn màu đen dài 35cm; 01 bình nhựa màu xanh có nút bấm; 01 thanh nhựa cong màu đen có nút bấm cùng 04 khối nhựa. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp nên không đề cập xử lý.

[6] Bị cáo Nguyễn Đình P có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình P 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 5 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tch thu tiêu hủy:

- 01 bì niêm phong đựng toàn bộ mẫu bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 152/GĐ-MT ngày 03 tháng 6 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng;

- 01 cân điện tử màu đỏ trắng có chữ “Manlloro”; 01 bình nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút nhựa; 01 nỏ thủy tinh; 01 bình gas mini có chữ “Max”; 01 đầu khò màu đen; 10 vỏ bao nylong kích thước 03cm x 03cm và 10 vỏ bao nylong kích thước 04cm x 07cm.

Tch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động hiệu Sony, màu đen; số Imei: 35606007589466, gắn sim số 0934.844.869.

- Trả lại cho Nguyễn Đình P: số tiền 200.000 đồng nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 10 năm 2019).

3. Về án phí: Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Đình P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay ngày 29 tháng 10 năm 2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:112/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về