TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 112 /2019/HS-ST NGÀY 27/12/2019 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 105/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:
Bùi Văn T, sinh năm 1995 tại xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Trú tại: Thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; con ông Bùi Văn Đ và bà Bùi Thị L; Vợ, con: chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
2. Bị hại: Anh Hoàng Văn K sinh năm 1986 Trú tại: khu tập thể phân trại số 4 trại giam Ninh Khánh, thuộc địa phận thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt
3. Người làm chứng: Bà Phạm Thị Minh T sinh năm 1961, Bùi Văn Đ sinh năm 1982. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 14/9/2019, Bùi Văn T sau khi ăn sáng cùng với anh Tạ Văn V sinh năm 1992 ở thôn Đ, xã Q, huyện N xong thì anh V điều khiển xe mô tô chở T đi về. Khi về đến đường thôn Đ, xã Q thì gặp xe ô tô nhãn hiệu huyndai i10 màu đỏ, biển kiểm soát 35A- 115.47 do anh Hoàng Văn K sinh năm 1986, trú tại khu tập thể phân trại số 4 trại giam Ninh Khánh, thuộc địa phận thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình điều khiển chở mẹ đẻ là bà Phạm Thị Minh T sinh năm 1961, trú tại xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định đi ngược chiều. Khi anh V chở T đi ngang qua xe ô tô của anh K thì T ngồi sau xe mô tô dùng tay vỗ vào kính hông xe bên phải phía trước xe ô tô của anh K với mục đích trêu đùa.
Thấy vậy anh K điều khiển xe ô tô quay lại đi theo xe mô tô của V chở T đến khu vực ngã ba giao nhau đường thôn Đ, xã Q và đường đi vào Phân trại 4, trại giam Ninh Khánh thuộc địa phận thôn Đ, xã Q, huyện Nthì anh V dừng xe để T xuống xe đi bộ đến nhà người thân chơi còn anh V điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi Bùi Văn T đang đi bộ thì anh Hoàng Văn K điều khiển ô tô đi đến kéo cửa kính xe xuống hỏi T “Có việc gì vậy anh”. Lúc này T nghĩ anh K đi theo thách thức nên Bùi Văn T đã thò tay phải qua cửa kính xe ô tô túm cổ áo định đánh anh K nhưng anh K né tránh được và kéo cửa kính xe ô tô lên thì T chửi anh K và yêu cầu anh K ra ngoài xe ô tô để nói chuyện nhưng anh K ngồi yên trong xe ô tô không ra nên Bùi Văn T bực tức vừa chửi vừa dùng cùi chỏ tay phải vung tay đập vào cửa kính hông xe bên trái phía trước 2 đến 3 phát. Sau đó T đi lên phía trước đầu xe ô tô của anh K và dùng tay phải và cổ tay phải đập mạnh vào kính chắn gió phía trước bên phải xe ô tô bị nứt vỡ KT(100x80)cm; sau đó K lại tiếp tục đi sang 2 bên hông xe sử dụng chân phải đạp gương chiếu hậu bên phải bị nứt vỡ KT(12x12)cm và dùng chân phải đạp vào mặt kính gương chiếu hậu bên trái làm mặt gương vỡ bong rời khỏi xe đồng thời sử dụng chân đạp vào ốp bảo vệ kính chắn gió 2 bên. Lúc này có anh Bùi Văn Đạo ở thôn Đ, xã Q, huyện Nđến can ngăn nhưng Bùi Văn T lại tiếp tục nhặt đá ở ven đường đập vào phần nẹp xe ô tô bên phải cánh cửa trước gây sạt sước sơn KT2x2)cm, lõm 0, 2cm; Đập vào trụ kính cánh cửa phía trước bên phải gây sạt sước sơn KT(5x4)cm, lõm 0, 2cm; Đập vào nẹp cao su kính trước cửa bên phải gây sạt sước cao su KT3x1)cm; và đập vào góc bên phải cánh cửa bên phải phía sau xe ô tô gây sạt sước sơn KT(4x1)cm, lõm 0, 2cm sau đó T ném viên đá xuống đường rồi đi về. Quá trình xảy ra sự việc Anh Hoàng Văn K do sợ bị T đánh nên ngồi trong xe dùng điện thoại di động của mình quay lại toàn bộ sự việc T chửi bới và đập phá xe ô tô. Đến khoảng 08 giờ 45 phút anh Hoàng Văn K đến Công an xã Q trình báo sự việc. Công an xã Q đã báo cáo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N giải quyết theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10 biển kiểm soát 35A- 115.47 của anh Hoàng Văn K, đồng thời anh K đã giao nộp cho Cơ quan điều tra 01USB nhãn hiệu Kingston chứa dữ liệu là đoạn Video có độ dài 15s ghi lại hình ảnh việc Bùi Văn T có hành vi đập phá làm hư hỏng xe ô tô nhãn hiệu huyndai i10 màu đỏ, biển kiểm soát 35A- 115.47 của anh Hoàng Văn K.
Tại kết luận định giá tài sản số 42 ngày 08/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nkết luận: Thay mới toàn bộ mặt gương bên phụ trị giá 700.000 đồng; nẹp kính trị giá 450.000 đồng, đèn xi nhan gương bên phụ trị giá 500.000 đồng, mặt gương bên lái trị giá 700.000 đồng; mô tô gương bên lái trị giá 500.000 đồng; kính chắn gió phía trước trị giá 3.500.000 đồng; sơn ốp gương bên phụ 500.000 đồng; gò tai trước bên phụ trị giá 500.000 đồng; gò, sơn trụ kính bên phụ 500.000 đồng; gò sơn khung kính cửa trước bên phụ 350.000 đồng; sơn cửa sau bên phụ 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 7.850.000 đồng. Giá trị hao mòn của tài sản tại thời điểm định giá còn lại là 7.195.509 đồng.
Về vật chứng của vụ án:
Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10 biển kiểm soát 35A- 115.47 đã xác định là tài sản hợp pháp của anh Hoàng Văn K nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho anh Hoàng Văn K là phù hợp.
Đối với 01USB nhãn hiệu Kingston chứa dữ liệu là đoạn Video có độ dài 15s ghi lại hình ảnh việc Bùi Văn T có hành vi đập phá làm hư hỏng xe ô tô nhãn hiệu huyndai i10 màu đỏ, biển kiểm soát 35A- 115.47 của anh Hoàng Văn K được chuyển theo hồ sơ vụ án.
Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Bùi Văn T đã bồi thường cho anh Hoàng Văn K số tiền 13.145.000 đồng. Sau khi nhận số tiền trên anh K nhất trí và không yêu cầu đề nghị gì.
Tại bản cáo trạng số 103/CT - VKS ngày 29/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản “ theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 178; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Đề nghị:
Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Q, huyện N tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nho Quan.
Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kh ng định: Khoảng 08 giờ ngày 14/9/2019 tại khu vực ngã ba giao nhau đường thôn Đ, xã Q và đường đi vào Phân trại 4, trại giam Ninh Khánh thuộc địa phận thôn Đ, xã Q, huyện N. Bùi Văn T dùng chân tay và đá đập vào xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10 màu đỏ, biển kiểm soát 35A- 115.47 của anh Hoàng Văn K làm hư hỏng kính chắn gió phía trước bên phải bị nứt vỡ; gương chiếu hậu bên phải bị nứt vỡ; gương chiếu hậu bên trái vỡ bong rời khỏi xe; phần nẹp xe ô tô bên phải cánh cửa trước sạt sước sơn, lõm 0, 2cm; trụ kính cánh cửa phía trước bên phải sạt sước sơn, lõm 0, 2cm; Nẹp cao su kính trước cửa bên phải sạt sước cao su; Góc bên phải cánh cửa bên phải phía sau sạt sước sơn, lõm 0, 2cm. Tổng giá trị tài sản bị hư hỏng là 7.195.509 đồng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nvẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy:
Hành vi bị cáo dùng chân tay và đá đập vào xe ô tô của anh Hoàng Văn K là cố ý, tính chất tội phạm là ít nghiêm trọng đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.
Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm chung cũng như giúp bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Xét bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện. Bị cáo đã tích cực khắc phục bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại. Bị hại đã có ý kiến không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh các thông báo và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy cần áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự xét xử bị cáo bằng hình phạt không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo tự cải tạo tại địa phương là đủ.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo Bùi Văn T đã bồi thường cho anh Hoàng Văn K số tiền 13.145.000 đồng. Sau khi nhận số tiền trên anh K nhất trí và không yêu cầu đề nghị gì. Xét đây là sự tự nguyện của các bên nên cần ghi nhận, không đặt ra việc giải quyết.
[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Do bị cáo là người dân tộc sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn nên áp dụng Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 178; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18(mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự .
2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại về việc bị cáo đã bồi thường đủ số tiền 13.145.000 đồng.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Miến án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 112/2019/HS-ST ngày 27/12/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 112/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về