Bản án 112/2019/HSST ngày 26/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 112/2019/HSST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26/9/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2019/HSST ngày 12/7/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý Thuận T; Tên gọi khác: không; Sinh năm 1987; tại Hồ Chí Minh; HKTT: số 119, đường H, phường 2, quận 11, thành phố H; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Lý Tô H (đã chết) và bà Đàm M, sinh năm 1953; Vợ là Nguyễn Thị Thu P, sinh năm 1997 và một con sinh năm 2019; Tiền sự: không; Tiền án: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân Quận 8, thành phố H xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp T sản”; Tạm giam từ ngày 28 tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người bị hại:

1/Bà Thị Út N; sinh ngày 1997; Nơi cư trú: đường Nguyễn B, khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

2/Ông Lê Viết H, sinh năm 1991; Nơi cư trú: khu phố 2, phường T, thành phố Đ, Bình Phước.

3/Bà Phạm Thị T, sinh năm 1992; Nơi cư trú: tổ 2, khu phố T, phường T, thành phố Đ, Bình Phước.

4/Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973; Nơi cư trú: ấp 2, xã T, thành phố Đ, Bình Phước.

5/Ông Nguyễn Văn Q; sinh năm 1956; Nơi cư trú: tổ 3, khu phố T, phường T, thành phố Đ, Bình Phước.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1976; Nơi cư trú: tổ 3, khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

2/ Bà Nguyễn Thị Thu P, sinh năm 1997; Nơi cư trú: ấp 7, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài cá nhân nên Lý Thuận T nảy sinh ý định trộm cắp T sản bán lấy tiền tiêu xài, để thực hiện ý định trên T đã chuẩn bị công cụ, phương tiện như mỏ lết, cờ lê, tuốc nơ vít và xe mô tô biển số 93H5-8004 để phá khóa đột nhập trộm cắp T sản của các hộ dân trên địa bàn thành phố Đ, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 15giờ 00phút ngày 12/3/2019 T điều khiển xe mô tô biển số: 93H5 – 8004 đi lòng vòng trên các tuyến đường nội ô thành phố Đ tìm T sản lấy trộm. Khi đi đến đoạn đường V thuộc phường T, T điều khiển xe rẽ vào đoạn đường hẻm phía sau khách sạn V phát hiện phía tay phải theo chiều đi của mình có 01 dãy nhà trọ. T đi vào bên trong thấy phòng trọ không có số của chị Phạm Thị Th, ở cuối cùng phía bên trái không có người nên T dùng mỏ lết mang theo bẻ khoen khóa cửa vào lấy trộm 01 tivi hiệu TCL màu đen màn hình phẳng và đập con heo đất bên trong có khoảng 600.000 đồng gồm các tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 100.000 đồng và 200.000 đồng. Sau đó T bỏ tiền vào túi và mang tivi bán cho anh Thuận với giá 1.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết. (các bút lục 112->137, 158- >162, 173->178).

Tại kết luận định giá T sản số 42/KLĐG ngày 21/3/2019 của Hội đồng định giá T sản thành phố Đ kết luận: 01 ti vi màn hình phẳng màu đen hiệu TCL 32 inch đã qua sử dụng trị giá 1.700.000 đồng. (bút lục 30, 31).

Vụ thứ hai: Khoảng 13giờ ngày 16/3/2019, T điều khiển xe môtô biển số 93H5-8004 (xe của chị Nguyễn Thị Thu P, vợ T không biết việc T sử dụng vào việc phạm tội) mang theo công cụ đi lòng vòng trên các tuyến đường thành phố Đ tìm kiếm nhà dân sơ hở để lấy trộm. Khi đến đoạn đường ĐT741 thuộc ấp 2, xã T, thành phố Đ, T rẽ vào đường hẻm số 202 khoảng 100m thấy bên tay trái có một dãy trọ gồm nhiều phòng. Lúc này T chạy xe vào cổng nhà trọ phát hiện phòng trọ đầu tiên bên tay trái của chị Nguyễn Thị H cửa đang khép hờ, trong phòng không có ai và có 01 chiếc tivi Samsung màn hình phẳng nên đi vào lấy trộm. Sau khi lấy trộm, T dùng 01 cái võng dù có sẵn trong phòng trọ quấn chiếc tivi lại và dùng xe mô tô chở đến tiệm điện thoại “Nam Trúc Vân” thuộc khu phố T, phường T bán cho anh Nguyễn Minh T với giá 4.000.000 đồng. (các bút lục 112->137, 163->167, 173- >182).

Tại kết luận định giá T sản số 42/KLĐG ngày 21/3/2019 của Hội đồng định giá T sản thành phố Đ kết luận: 01 ti vi màn hình phẳng hiệu Samsung 50 inch màu đen đã qua sử dụng trị giá 4.500.000 đồng; 01 võng bằng dù màu rằn ri đã qua sử dụng trị giá 10.000 đồng (bút lục 30, 31).

Quá trình điều tra T còn khai nhận trước đó còn thực hiện nhiều vụ trộm cắp T sản trên địa bàn thành phố Đ, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 06/3/2019 T điều khiển xe biển số: 93H5 – 8004 mang theo công cụ đi từ phòng trọ tại ấp 7, xã T, thành phố Đ đi lòng vòng trên các tuyến đường thành phố Đ tìm kiếm nhà dân sơ hở để lấy trộm. Khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 14 thuộc phường T, thành phố Đ thì rẽ phải vào đường Nguyễn Bình. Khi đi được khoảng 50m phát hiện 01 dãy phòng trọ bên trái theo chiều đi của mình nên đi vào trong và đến phòng trọ số 06 của chị Thị Út N phát hiện thấy cửa phòng khép hờ, chị Nhung đang nằm ngủ. T đẩy đửa đi vào thấy 01 máy tính xách tay hiệu HP màu xám và 01 điện thoại Samsung J3 màu bạc nên lấy trộm. Sau đó T mang T sản ra và điều khiển xe bỏ trốn, lúc này chị N phát hiện đuổi theo nên T bỏ chạy và làm rớt mất chiếc điện thoại Samsung J3 màu bạc. Sau đó T mang chiếc máy tính xách tay bán cho một người đàn ông không rõ lai lịch ở quán cà phê (không rõ biển hiệu) trên đường N thuộc phường T, thành phố Đ với giá là 800.000 đồng và tiêu xài hết. Đối với các vật chứng là 01 máy tính xách tay hiệu HP màu xám và 01 điện thoại Samsung J3 màu bạc không thu hồi được nên không tiến hành định giá được T sản (các bút lục 112->137, 146->152).

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 12/3/2019 T điều khiển xe mô tô biển số: 93H5 – 8004 mang theo công cụ đi từ phòng trọ tại ấp 7, xã T, thành phố Đ đi lòng vòng trên các tuyến đường thành phố Đ tìm kiếm nhà dân sơ hở để lấy trộm. Khi đi đến khu vực bệnh viện đa khoa tỉnh B, T điều khiển xe đi vào đường T thuộc khu phố 2, phường T và tiếp tục đi vào đường khu dân cư N6 phát hiện 01 dãy nhà trọ. Lúc này T đi đến phòng trọ số 5 của anh Lê Viết H, quan sát thấy phòng trọ không có người và có 01 chiếc điện thoại Oppo A83 màu đen đang cắm sạc dưới nền phòng trọ nên T lấy móc phơi áo quần ở phía ngoài hành lang của dãy phòng trọ khều kéo chiếc điện thoại ra. Sau đó T mang đến tiệm điện thoại “Nam Trúc Vân” bán cho anh Th với giá là 700.000 đồng. Do không thu hồi được T sản nên không tiến hành định giá T sản (các bút lục 112->137, 153->157, 173->178).

Vụ thứ ba: Khoảng 13giờ 00phút ngày 18/3/2019 T điều khiển xe mô tô biển số: 93H5 – 8004 mang theo công cụ đi từ phòng trọ tại ấp 7, xã T, thành phố Đ đi lòng vòng trên các tuyến đường thành phố Đ tìm kiếm nhà dân sơ hở để lấy trộm. Khi đi đến khu vực ngã ba Trạm điện thuộc khu phố T, phường T, thành phố Đ, T rẽ vào đường N và đi được khoảng 300m phát hiện 01 dãy nhà trọ phía bên trái nên chạy xe mô tô vào tìm T sản lấy trộm. T quan sát thấy phòng trọ số 6 của ông Nguyễn Văn Q cửa khép hờ nên T đẩy cửa vào thấy có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand Prime G530 màu trắng để ở đầu giường, còn ông Q đang ngủ trên giường nên đã đi đến lấy trộm bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe mang điện thoại đi bán, trên đường đi bị lực lượng Công an thành phố Đ phát hiện đưa về trụ sở làm việc (các bút lục 112->137, 168->172).

Tại kết luận định giá T sản số 42/KLĐG ngày 21/3/2019 của Hội đồng định giá T sản thành phố Đ kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Prime G530 màu trắng đã qua sử dụng còn hoạt động bình thường trị giá 800.000 đồng. (bút lục 30, 31).

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội 02 lần trở lên và thuộc trường hợp tái phạm.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

Quá trình điều tra thu giữ: 01 (một) mũ bảo hiểm màu đỏ, vành lưỡi trai màu đen, trên nón có dòng chữ “HELMET” màu xanh; 01 (một) áo khoác màu đen, mặt sau cổ áo có dòng chữ “ADIDAS”; 01 (một) áo thun màu xanh, loại ngắn tay, trên cổ áo có đường viền màu đỏ, trên ngực trái có dòng chữ “BRING LOCAL TO GLOBAL SON THANH”; 01 (một) quần dài Jean màu xanh, mặt trong lưng quần có dòng chữ “GIORGIO ARNANI”; 01 mỏ lết bằng kim loại màu trắng dài 20cm, nhãn hiệu “LIBERMAN”; 01 cờ lê bằng kim loại màu trắng, trên thân có dòng chữ “FORGED STEEL”; 01 ống kim loại màu trắng dài 10cm, hai đầu hình lục giác; 01 tuốc nơ vít (loại 2 đầu), phần cán bằng nhựa màu xanh đỏ, dài 10cm có dòng chữ “S11-6.3x100mm USA YELANG”, phần kim loại hình lục giác dài 15cm, trên thân có dòng chữ “CHROME – VANADIUM”; 01 ổ khóa bằng kim loại màu vàng đã bị mất phần khóa, trên thân ổ khóa có dòng chữ “TOP SECURITY YOMAKA”; 01 ví da màu đen có chữ “POLO”, bên trong có số tiền mặt là: 12.967.000 đồng, 06 tờ 02 đô la Mỹ, 08 tờ 01 đô la Mỹ; 01 điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime G530 màu trắng số sim: 0981.741.667, số IMEI 1: 355677064095983/01 IMEI 2: 355695064095985/01; 01 điện thoại Nokia 215 màu đen, số sim: 0364.832.733, số IMEI 1: 358596068411623 IMEI 2: 358596068411631; 01 điện thoại Samsung Galaxy J2 Prime màu vàng đồng, số sim 1: 0379.291022 sim 2: 0919.767.956 số IMEI 1: 359498095859115/01 IMEI 2: 359499095859113/01.; 01 xe môtô nhãn hiệu DAMSAN, loại xe Wave màu xanh, không có yếm chắn gió, biển số: 93H5 – 8004 (các bút lục 185, 186).

- 01 điện thoại di động hiệu Philips màu đen không có sim, số Imel1: 863544039330934, Imel 2: 863544039532935; 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu bạc bên trong có 01 sim Viettel có số seri: 8984048000049031309; 06 cục sạc điện thoại hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng; 02 cục sạc Oppo màu trắng đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại nhãn hiệu Kim Cương màu đen đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu hồng hiệu Saver đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen hiệu Saver đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu trắng hiệu Yoobao đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng hiệu ATM đã qua sử dụng màu trắng; 01 cục sạc dự phòng màu đen hiệu Anker đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Nokia 1202 màu vàng không có sim; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen không có sim; 01 áo khoác bằng vải màu đỏ đen hai ống tay áo có sọc trắng chạy dọc từ vai đén cổ tay (các lút lục 99, 100).

- 01 ti vi màn hình phẳng hiệu Samsung 50 inch màu đen đã qua sử dụng, mã sản phẩm UA50Mu6150, phiên bản DA01; 01 ti vi màn hình phẳng màu đen nhãn hiệu TCL 32 inch đã qua sử dụng, mã sản phẩm L32D2720; 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83, kiểu máy CPH1827 màu đen; 01 võng bằng vải dù màu rằn ri (bút lục 187).

Ngày 10/4/2019, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Nguyễn Thị H là chủ sở hữu 01 ti vi màn hình phẳng hiệu Samsung 50 inch màu đen đã qua sử dụng, mã sản phẩm UA50Mu6150, phiên bản DA01 và 01 võng bằng vải dù màu rằn ri; Ngày 07/5/2019 trả lại cho chị Phạm Thị T 01 ti vi màn hình phẳng màu đen nhãn hiệu TCL 32 inch đã qua sử dụng, mã sản phẩm L32D2720 và trả cho anh Nguyễn Văn Q 01 điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime G530 màu trắng số sim: 0981.741.667, số IMEI 1: 355677064095983/01 IMEI 2: 355695064095985/01; Ngày 29/5/2019 ra quyết định xử lý vật chứng trả cho chị Nguyễn Thị Thu P số tiền 7.000.000 đồng và 01 xe mô tô hiệu DamSan biển số 93H5-8004 màu xanh, trả cho anh Lê Viết H 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 màu đen (các bút lục 190->197).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị H đã nhận lại T sản chiếc ti vi hiệu Samsung 50inch màu đen và không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự. Bị hại Phạm Thị Th đã nhận lại T sản chiếc ti vi hiệu “TCL” 32inch màu đen, không yêu cầu gì thêm về phần dân sự. Bị hại Nguyễn Văn Q đã nhận lại T sản chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand Prime G530 màu trắng, bị hại Lê Viết H đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 màu đen, anh Q và anh H không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Chị Nguyễn Thị Thu Ph (vợ bị can T) đã bồi thường số tiền 6.000.000 đồng cho chị Thị Út N, chị N không có yêu cầu gì thêm về dân sự đối với bị can T (bút lục 151, 152).

Anh Nguyễn Minh Th yêu cầu bị can bồi thường số tiền 5.700.000 đồng là số tiền mua các T sản do bị can phạm tội mà có. Hiện bị can chưa bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 87/CT – VKS – ĐX ngày 04/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Lý Thuận T về tội:“Trộm cắp T sản” theo khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước giữ nguyên bản cáo trạng số 87/CT – VKS – ĐX ngày 04/7/2019 và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo T từ 18 đến 24 tháng tù.

Căn cứ vào các Tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, lời trình bày của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Lý Thuận T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng số 87/CT – VKS ngày 04/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, các bản kết luận định giá tài sản, vật chứng của vụ án đã thu giữ được cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, cụ thể: Để có tiền tiêu xài cá nhân nên trong khoảng thời gian từ tháng 06/3/2019 đến ngày 18/3/2019 bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của những người bị hại là Thị Út N, Lê Viết H, Phạm Thị Th, Nguyễn Thị H và Nguyễn Văn Q để lén lút lấy trộm tài sản. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã lấy trộm của những người bị hại là 9.110.000 đồng.

[2.1] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, trong quá trình thực hiện tội phạm bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo vào năm 2017 đã bị Tòa án nhân dân Q, thành phố H xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt, trong thời gian chưa được xóa án tích bị cáo lại tiếp tục lợi dụng vào sợ sơ hở, mất cảnh giác của những người bị hại để nhiều lần, liên tiếp thực hiện hành vi lấy trộm tài sản của những người bị hại, thể hiện bị cáo không có sự ăn năn.

[2.2.] Hành vi đó của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân,làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho người dân. Với tổng số tiền bị cáo đã nhiều lần chiếm đoạt là 9.110.000đồng. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự với tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước sự là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật hình sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo; quá trình điều tra, truy tố đã tự nguyện tác động đến gia đình của bị cáo khắc phục hậu quả cho những người bị hại, tại phiên tòa tự nguyện trả lại tiền cho người có quyền nghĩa vụ liên quan và một số tài sản đã được thu hồi trả lại cho những người bị hại, tổng giá trị tài sản bị thiệt hại cũng không lớn nên cần xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[3]Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên không xem xét áp dụng với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3.1]Đối với ông Nguyễn Minh Th là người đã mua các tài sản của bị cáo bán nhưng không biết đó là tài sản do bị cáo đã chiếm đoạt mà có, sau khi phát hiện đã tự nguyện giao nộp các tài sản trên nên Cơ quan điều tra không đạt vấn đề xử lý về hình sự do vậy HĐXX không xem xét.

[3.2] Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đã được nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh Th yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 5.700.000đồng là tiền đã mua các tài sản do bị cáo trộm cắp mà có. Bị cáo đồng ý trả lại số tiền 5.700.000đồng cho ông Th. Do vậy, HĐXX ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, buộc bị cáo phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Thuận số tiền 5.700.000đồng.

[4] Về vật chứng vụ án: gồm có

[4.1] Một mũ bảo hiểm màu đỏ, vành lưỡi trai màu đen, trên nón có dòng chữ “HELMET” màu xanh;

Mt áo khoác màu đen, mặt sau cổ áo có dòng chữ “ADIDAS”;

01 (một) áo thun màu xanh, loại ngắn tay, trên cổ áo có đường viền màu đỏ, trên ngực trái có dòng chữ “BRING LOCAL TO GLOBAL SON THANH”;

01 (một) quần dài Jean màu xanh, mặt trong lưng quần có dòng chữ “GIORGIO ARNANI”;

01 áo khoác bằng vải màu đỏ đen hai ống tay áo có sọc trắng chạy dọc từ vai đén cổ tay 10 cục xạc pin điện thoại di động các loại, cụ thể: 06 cục sạc điện thoại hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng; 02 cục sạc Oppo màu trắng đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại nhãn hiệu Kim Cương màu đen đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu hồng hiệu Saver đã qua sử dụng.

Và 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen hiệu Saver đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu trắng hiệu Yoobao đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng hiệu ATM đã qua sử dụng màu trắng; 01 cục sạc dự phòng màu đen hiệu Anker đã qua sử dụng => Các vật chứng trên được thu giữ của bị cáo là tài sản của bị cáo nhưng không có còn giá trị sử nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4.2] Một mỏ lết bằng kim loại màu trắng dài 20cm, nhãn hiệu “LIBERMAN”;

01 cờ lê bằng kim loại màu trắng, trên thân có dòng chữ “FORGED STEEL” 01 ống kim loại màu trắng dài 10cm, hai đầu hình lục giác;

01 tuốc nơ vít (loại 2 đầu), phần cán bằng nhựa màu xanh đỏ, dài 10cm có dòng chữ “S11-6.3x100mm USA YELANG”, phần kim loại hình lục giác dài 15cm, trên thân có dòng chữ “CHROME – VANADIUM”;

01 ổ khóa bằng kim loại màu vàng đã bị mất phần khóa, trên thân ổ khóa có dòng chữ “TOP SECURITY YOMAKA” => Các vật chứng trên là công cụ bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4.3] Một điện thoại Nokia 215 màu đen, số sim: 0364.832.733, số IMEI 1: 358596068411623 IMEI 2: 358596068411631;

Một điện thoại Samsung Galaxy J2 Prime màu vàng đồng, số sim 1: 0379.291022 sim 2: 0919.767.956 số IMEI 1: 359498095859115/01 IMEI 2: 359499095859113/01;

01 điện thoại di động Nokia 1202 màu vàng không có sim;

01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen không có sim;

01 điện thoại di động hiệu Philips màu đen không có sim, số Imel1: 863544039330934, Imel 2: 863544039532935;

01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu bạc bên trong có 01 sim Viettel có số seri: 8984048000049031309;

Và một ví da màu đen có chữ “POLO”, bên trong còn số tiền mặt là 5.967.000đồng; 06 tờ 02 đô la Mỹ, 08 tờ 01 đô la Mỹ => Các vật chứng trên là tài sản riêng của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần quản thủ số tiền 5.967.000đồng để đảm bảo việc thi hành án số tiền 5.700.000đồng cho ông Th.

[4.4] Các vật chứng khác đã thu giữ tuy nhiên đã được cơ quan điều tra xử lý trả lại cho chủ sở hưu nên HĐXX không xem xét lai.

[5] Án phí hình sự: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Thuận T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điều 50, Điều 38; Điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Lý Thuận T 18 (mười tám) tháng tù, Thời hạn chấp hành án được tính từ ngày 18/3/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 48 của Bộ luật hình sự.

Buộc bị cáo có trách nhiện hoàn trả cho ông Nguyễn Minh Th số tiền 5.700.000đồng (Năm triệu bảy trăm ngàn đồng)

4. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 46, 47 của Bộ luật hình sự và điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy:

Mt mũ bảo hiểm màu đỏ, vành lưỡi trai màu đen, trên nón có dòng chữ “HELMET” màu xanh;

Mt áo khoác màu đen, mặt sau cổ áo có dòng chữ “ADIDAS”;

01 (một) áo thun màu xanh, loại ngắn tay, trên cổ áo có đường viền màu đỏ, trên ngực trái có dòng chữ “BRING LOCAL TO GLOBAL SON THANH”;

01 (một) quần dài Jean màu xanh, mặt trong lưng quần có dòng chữ “GIORGIO ARNANI”;

01 áo khoác bằng vải màu đỏ đen hai ống tay áo có sọc trắng chạy dọc từ vai đén cổ tay 10 cục xạc pin điện thoại di động các loại, cụ thể: 06 cục sạc điện thoại hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng; 02 cục sạc Oppo màu trắng đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại nhãn hiệu Kim Cương màu đen đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu hồng hiệu Saver đã qua sử dụng.

01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen hiệu Saver đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu trắng hiệu Yoobao đã qua sử dụng; 01 cục sạc điện thoại dự phòng hiệu ATM đã qua sử dụng màu trắng; 01 cục sạc dự phòng màu đen hiệu Anker đã qua sử dụng.

Mt mỏ lết bằng kim loại màu trắng dài 20cm, nhãn hiệu “LIBERMAN”;

01 cờ lê bằng kim loại màu trắng, trên thân có dòng chữ “FORGED STEEL” 01 ống kim loại màu trắng dài 10cm, hai đầu hình lục giác;

01 tuốc nơ vít (loại 2 đầu), phần cán bằng nhựa màu xanh đỏ, dài 10cm có dòng chữ “S11-6.3x100mm USA YELANG”, phần kim loại hình lục giác dài 15cm, trên thân có dòng chữ “CHROME – VANADIUM”;

01 ổ khóa bằng kim loại màu vàng đã bị mất phần khóa, trên thân ổ khóa có dòng chữ “TOP SECURITY YOMAKA”

- Tuyên trả lại cho bị cáo:

Một điện thoại Nokia 215 màu đen, số sim: 0364.832.733, số IMEI 1: 358596068411623 IMEI 2: 358596068411631;

Một điện thoại Samsung Galaxy J2 Prime màu vàng đồng, số sim 1: 0379.291022 sim 2: 0919.767.956 số IMEI 1: 359498095859115/01 IMEI 2: 359499095859113/01;

01 điện thoại di động Nokia 1202 màu vàng không có sim;

01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen không có sim;

01 điện thoại di động hiệu Philips màu đen không có sim, số Imel1: 863544039330934, Imel 2: 863544039532935;

01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu bạc bên trong có 01 sim Viettel có số seri: 8984048000049031309;

Và một ví da màu đen có chữ “POLO”, bên trong còn số tiền mặt là 5.967.000đồng; 06 tờ 02 đô la Mỹ, 08 tờ 01 đô la Mỹ (Quản thủ số tiền 5.967.000đồng để đảm bảo việc thi hành án số tiền 5.700.000đồng cho ông Thuận).

5. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Những người bị hại và ông Th được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2019/HSST ngày 26/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:112/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về