Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ D, TỈNH B

BẢN ÁN 112/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 660/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Tô Văn C; sinh năm 1980; thường trú: Số 32/15, khu phố ĐB, phường Đ, thị xã D, tỉnh B; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Lại Thị Hồng T, sinh năm 1984; thường trú: Số 32/15, khu phố ĐB, phường Đ, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 22/6/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Tô Văn C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Tô Văn C và chị Lại Thị Hồng T có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, đến năm 2010 tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã D, tỉnh B, theo giấy chứng nhận kết hôn số 109/KH/2010, quyển 01 ngày 26/6/2010.

Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2015 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do chị Lại Thị Hồng T không rõ ràng về tiền bạc, tài chính, gây nợ nần nhiều, hai bên gia đình và anh Tô Văn C đã khuyên nhủ và cho thời gian để chị Lại Thị Hồng T thay đổi để cùng vun đắp cho cuộc sống gia đình nhưng số nợ riêng của chị Lại Thị Hồng T không giảm mà ngày càng nhiều, gây ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình và các con. Anh Tô Văn C xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với chị Lại Thị Hồng T.

Hiện nay, anh Tô Văn C là công nhân, thu nhập trung bình khoảng 15.000.000 đồng/tháng, chị Lại Thị Hồng T là công nhân thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/1 tháng.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Tô Tiến D, sinh ngày 15/3/2011 và Tô Tuyết V, sinh ngày 10/7/2012. Anh Tô Văn C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung sau khi ly hôn và không yêu cầu chị Lại Thị Hồng T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về phía bị đơn chị Lại Thị Hồng T:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu chị Lại Thị Hồng T có ý kiến trả lời bằng văn bản đối với các yêu cầu của anh Tô Văn C nhưng chị Lại Thị Hồng T không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Lại Thị Hồng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị Lại Thị Hồng T vắng mặt không có lý do; đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào. Vào ngày 12/9/2019 và ngày 30/9/2019, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, chị Lại Thị Hồng T được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất cứ tài liệu chứng cứ gì thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của anh Tô Văn C.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, tuy nhiên có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 12/9/2019 và ngày 30/9/2019 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn anh Tô Văn C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn chị Lại Thị Hồng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa ngày 30/9/2019 nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh Tô Văn C và chị Lại Thị Hồng T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Tô Văn C và chị Lại Thị Hồng T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã D, tỉnh B, theo giấy chứng nhận kết hôn số 109/KH/2010, quyển 01 ngày 26/6/2010 nên quan hệ hôn nhân của anh Tô Văn C và chị Lại Thị Hồng T là hợp pháp. Anh Tô Văn C cho rằng trong cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc do chị Lại Thị Hồng T không rõ ràng, minh bạch về tài chính, tiền bạc, gây nợ nần, anh Tô Văn C đã khuyên nhủ nhưng chị Lại Thị Hồng T không thay đổi. Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải thương yêu, quý trọng, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Xét quan hệ hôn nhân giữa anh Tô Văn C và chị Lại Thị Hồng T không có sự tin tưởng kinh tế, tài chính, chị Lại Thị Hồng T không chăm lo, vun vén hạnh phúc gia đình, gây nợ nần. Đồng thời, sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập chị Lại Thị Hồng T tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị Lại Thị Hồng T không đến Tòa án và cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của anh Tô Văn C, điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn và không muốn hàn gắn, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không đạt được mục đích. Vì vậy, xét thấy không thể kéo dài cuộc sống chung của vợ chồng nên yêu cầu ly hôn của anh Tô Văn C với chị Lại Thị Hồng T là có cơ sở phù hợp với quy định của Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Anh Tô Văn C và chị Lại Thị Hồng T có 02 con chung là Tô Tiến D, sinh ngày 15/3/2011 và Tô Tuyến V, sinh ngày 10/7/2012. Anh Tô Văn C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung sau khi ly hôn và không yêu cầu chị Lại Thị Hồng T cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét về mọi mặt, quyền lợi của con chưa thành niên và nguyện vọng của con trên 07 tuổi. Xét thấy, trong quá trình tố tụng chị Lại Thị Hồng T không có ý kiến về vấn đề con chung, tại bản tự khai ngày 26/8/2008 cháu Tô Tiến D và cháu Tô Tuyến V có nguyện vọng ở với cha là anh Tô Văn C. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận giao cháu Tô Tiến Dũng, sinh ngày 15/3/2011 và Tô Tuyến Vy, sinh ngày 10/7/2012 cho anh Tô Văn C trực tiếp nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Tô Văn C về việc không yêu cầu chị Lại Thị Hồng T cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh B.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Tô Văn C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Chị Lại Thị Hồng T không phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 244, Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Tô Văn C:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Tô Văn C được ly hôn với chị Lại Thị Hồng T (theo Giấy kết hôn số 109/KH/2010, quyển 01 do Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã D, tỉnh B cấp ngày 26/6/2010)

- Về con chung: Chị Lại Thị Hồng T giao 02 con chung tên Tô Tiến D, sinh ngày 15/3/2011 và Tô Tuyến V, sinh ngày 10/7/2012 cho anh Tô Văn C trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, chị Lại Thị Hồng T và anh Tô Văn C đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp chị Lại Thị Hồng T lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc anh Tô Văn C nuôi con thì anh Tô Văn C có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Tô Văn C về việc không yêu cầu chị Lại Thị Hồng T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Tô Văn C phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn, được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0028883 ngày 11/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh B.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:112/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về