Bản án 1121/2017/HNGĐ-ST ngày 24/08/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1121/2017/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 513/2015/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2015 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 594/2017/QĐXX-ST ngày 27 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lâm Đình Hào, sinh năm 1985.

Địa chỉ: 68/32 Xóm Đất, Phường 8, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Nguyen Ngoc Vu Vi, sinh năm 1983. Quốc tịch: Australia.

Địa chỉ: 48 Corinda St Johns Park 2176 NSW Australia.

(Đu vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 17/11/2015 và bản tự khai ngày 22/12/2015 của nguyên đơn ông Lâm Đình Hào trình bày:

Năm 2010, ông và bà Nguyen Ngoc Vu Vi tự nguyện kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 813, quyển số 03 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/3/2010. Sau khi kết hôn, bà Nguyen Ngoc Vu Vi trở về Australia sinh sống và làm việc. Ông Hào vẫn sống và làm việc ở Việt Nam. Thời gian đầu, mỗi năm bà Nguyen Ngoc Vu Vi về Việt Nam thăm ông 01 lần, mỗi lần được 01 tháng. Nhưng từ năm 2013 cho tới nay, ông và bà Nguyen Ngoc Vu Vi không còn liên lạc gì với nhau. Vợ chồng ông không có điều kiện sống chung với nhau, tình cảm không được vun đắp do mỗi người sống ở một quốc gia nên mong muốn về một gia đình hạnh phúc cũng như mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ gia đình là không thể thực hiện. Nay ông Hào làm đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị được ly hôn với bà Nguyen Ngoc Vu Vi để có điều kiện ổn định cuộc sống và cơ hội tìm hạnh phúc mới cho bản thân.

Con chung: Ông Hào khai không có.

Tài sản chung và nợ chung: Ông Hào khai không có.

Ngày 11/01/2016, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp lần 1 cho Bộ Tư pháp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Australia thông báo việc thụ lý vụ án, tiến hành lấy lời khai và thông báo vụ án được đưa ra hòa giải vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 30 tháng 9 năm 2016 và xét xử vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 17 tháng 10 năm 2016 đối với ông Luu Xuong (Lưu Xương) bằng công văn số 23/UTTPDS-TLĐ.

Ngày 11/4/2016, Bộ Tư pháp đã có công văn số 1152/BTP-PLQT gửi Bộ Ngoại giao hồ sơ ủy thác tư pháp lần 1 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền của Australia.

Ngày 23/11/2016, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp lần 2 cho Bộ Tư pháp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Australia thông báo việc thụ lý vụ án, tiến hành lấy lời khai và thông báo vụ án được đưa ra hòa giải vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 27 tháng 7 năm 2017 và xét xử vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 24 tháng 8 năm 2017 đối với ông Luu Xuong (Lưu Xương) bằng công văn số 1272/UTTPDS-TA.

Ngày 17/02/2017, Bộ Tư pháp đã có công văn số 506/BTP-PLQT gửi cho Bộ Ngoại giao hồ sơ ủy thác tư pháp lần 2 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền của Australia.

Ti phiên tòa sơ thẩm:

Ngày 21/8/2017, nguyên đơn ông Lâm Đình Hào có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án, hòa giải và xét xử vì lý do bận công việc, không sắp xếp được thời gian để có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

Bị đơn bà Nguyen Ngoc Vu Vi đã được Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành ủy thác tư pháp hợp lệ hai lần để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng bà Nguyen Ngoc Vu Vi không có văn bản trả lời và vắng mặt không lý do.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Vic tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng khác đã chấp hành đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông Lâm Đình Hào được ly hôn với bà Nguyen Ngoc Vu Vi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Xét ông Lâm Đình Hào có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Bà Nguyen Ngoc Vu Vi đã được Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành ủy thác tư pháp hợp lệ hai lần thông báo thời gian xét xử nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Lâm Đình Hào và bà Nguyen Ngoc Vu Vi theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết: Xét yêu cầu của nguyên đơn thuộc tranh chấp về ly hôn, bị đơn bà Nguyen Ngoc Vu Vi có quốc tịch Australia, đang cư trú hợp pháp tại Australia thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu ly hôn của ông Lâm Đình Hào, Hội đồng xét xử nhận thấy:

n cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 813, quyển số 03 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/3/2010 có đủ cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân giữa ông Lâm Đình Hào và bà Nguyen Ngoc Vu Vi là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, ông Hào khai rằng bà Nguyen Ngoc Vu Vi trở về Australia sinh sống và làm việc. Ông Hào vẫn sống và làm việc ở Việt Nam. Thời gian đầu, mỗi năm bà Nguyen Ngoc Vu Vi về Việt Nam thăm ông 01 lần, mỗi lần được 01 tháng. Nhưng từ năm 2013 cho tới nay, ông và bà Nguyen Ngoc Vu Vi không còn liên lạc gì với nhau. Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau san sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; nghĩa vụ sống cùng với nhau trong khi hai vợ chồng ông Lâm Đình Hào và bà Nguyen Ngoc Vu Vi mỗi người một nơi, điều kiện đi lại khó khăn dẫn đến tình cảm vợ chồng càng không có điều kiện vun đắp nên ông Hào yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bà Nguyen Ngoc Vu Vi là có cơ sở để chấp nhận.

Con chung: Không có.

Tài sản chung và nợ chung: Không có.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm ông Lâm Đình Hào phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 27/02/2009.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d Khoản 1, Khoản 2 Điều 469, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 53, Điều 54, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 27/02/2009; Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Đình Hào.

Quan hệ hôn nhân: Ông Lâm Đình Hào được ly hôn với bà Nguyen Ngoc Vu Vi.

Giấy chứng nhận kết hôn số 813, quyển số 03 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/3/2010 không còn giá trị pháp lý.

Con chung: Không có.

Tài sản chung, nợ chung: Không có.

2/ Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn ông Lâm Đình Hào phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng đã nộp theo biên lai thu số AG/2010/09653 ngày 25/11/2015 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Án xử sơ thẩm, ông Lâm Đình Hào được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án hoặc được niêm yết. Bà Nguyen Ngoc Vu Vi được quyền kháng cáo trong thời hạn 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1121/2017/HNGĐ-ST ngày 24/08/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1121/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về