Bản án 11/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội đánh bạc và gá bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ GÁ BẠC

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 169/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXX-HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Thị Tuyết T Tên gọi khác: Giới tính: Nữ. Sinh năm: 1985. HKTT: Khu phố 6, phường P, TP.Ph , tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: Không biết chữ Họ tên cha: Phạm Văn Mười (đã chết); Họ tên mẹ: Cao Thị Bé - Sinh năm 1959;

Anh chị em ruột: Có 05 người, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm....., bị cáo là con thứ hai trong trong gia đình.

Họ tên chồng: Đặng Văn D – Sinh năm: 1993;

Có 03 con: Lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Họ và tên: Nguyễn Khoa N Tên gọi khác:

Giới tính: Nam Sinh năm: 1984.

HKTT: Khu phố 1, phường Kinh Dinh, TP.Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 11/12. Họ tên cha: Nguyễn Dũng, sinh năm 1955;

Họ tên mẹ: Đinh Thị Ngọc Đồng, sinh năm 1955;

Anh chị em ruột: Có 02 người, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1984, bị cáo là con út trong trong gia đình.

Họ tên vợ: Nguyễn Thị Thanh Tâm – Sinh năm: 1986;

Có 02 con: Lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2017;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 10/4/2020, bị Công an phường Kinh Dinh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép” Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 và chuyển tạm giam đến ngày 09/6/2020 thì được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh.

3. Họ và tên: Trương Vũ B Tên gọi khác:

Giới tính: Nam Sinh năm: 1987.

HKTT: Khu phố 5, phường Tấn Tài, Tp.Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nuôi cá; Trình độ học vấn: 6/12. Họ tên cha: Trương Trung Ái, sinh năm 1959;

Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Mỹ, sinh năm 1963;

Anh chị em ruột: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1997, bị cáo là con thứ hai trong trong gia đình.

Có 01 con tên Trương Nhã Uyên - sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 15/7/2003, bị Công an Tấn Tài ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 50.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”;

- Ngày 18/6/2004, bị Tòa án nhân dân thị xã Phan Rang-Tháp Chàm xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 03 năm, về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 và chuyển tạm giam đến ngày 10/6/2020 thì được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh.

4. Họ và tên: Nguyễn Mạnh T Tên gọi khác:

Giới tính: Nam Sinh năm: 1987.

HKTT: Khu phố 2, phường Đạo Long, Tp.Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Nuôi tôm; Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Nguyễn Mạnh, sinh năm 1966;

Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Thu Trang, sinh năm 1968;

Anh chị em ruột: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1992, bị cáo là con thứ nhất trong trong gia đình.

Họ tên vợ: Phùng Uyển Vũ Đông, sinh năm: 1990;

Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm: 2015;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 10/4/2020 Chủ tịch ủy ban nhân dân phường Kinh Dinh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”.

Nhân thân:

- Ngày 20/6/2018 Công an huyện Ninh Sơn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”.

- Ngày 29/3/2019 Chủ tịch ủy ban nhân dân phường Mỹ Hương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 và chuyển tạm giam đến ngày 23/6/2020 thì được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh.

5. Họ và tên: Trần Lâm Tịnh Tr Tên gọi khác:

Giới tính: Nam Sinh năm: 1993.

HKTT: Khu phố 1, phường Mỹ Hương, Tp.Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Trần Kim Anh (đã chết);

Họ tên mẹ: Lâm Trúc Viên, sinh năm 1966;

Anh chị em ruột: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1993, bị cáo là con út trong trong gia đình.

Họ tên vợ: Bùi Thị Diễm - Sinh năm: 1993;

Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 và chuyển tạm giam đến ngày 23/6/2020 thì được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh.

6. Họ và tên: Lê Văn Th Tên gọi khác:

Giới tính: Nam Sinh năm: 1986.

HKTT: Khu phố 3, phường Văn Hải, Tp.Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ Sơn; Trình độ học vấn: 5/12. Họ tên cha: Nguyễn Bé (đã chết);

Họ tên mẹ: Lê Thị Xí (đã chết);

Anh chị em ruột: Có 06 người, lớn nhất sinh năm ....., nhỏ nhất sinh năm 1986, bị can là con út trong trong gia đình.

Họ tên vợ: Phạm Thị Hải Vân - sinh năm: 1981; Có 01 con - sinh năm 2015;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Ngày 28/11/2014, Công an phường Văn Hải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”.

- Ngày 10/9/2016, Công an phường Văn Hải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”.

Bị cáo đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

7. Họ và tên: Đặng Văn D Tên gọi khác:

Giới tính: Nam Sinh năm: 1993.

HKTT: Khu phố 1, phường Mỹ Hương, Tp.Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nuôi tôm; Trình độ học vấn: 7/12. Họ tên cha: Đặng Văn Dũng - Sinh năm: 1959;

Họ tên mẹ: Lý Nguyệt Tương - Sinh năm: 1957;

Anh chị em ruột: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1993, bị cáo là con út trong trong gia đình.

Họ tên vợ: Phạm Thị Tuyết T - sinh năm: 1985;

Có 03 con, lớn nhất sinh năm: 2000, nhỏ nhất sinh năm: 2019;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

8. Họ và tên: Lâm Văn Th Tên gọi khác:

Giới tính: Nam Sinh năm: 1991.

HKTT: Khu phố 2, phường Đài Sơn, Tp.Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Tiếp thị; Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Lâm Văn Ngôn - Sinh năm: 1965;

Họ tên mẹ: Lê Thị Vân - Sinh năm: 1972;

Anh chị em ruột: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1997, bị cáo là con thứ nhất trong trong gia đình.

Họ tên vợ: Nguyễn Thị May - sinh năm: 1990;

Có 03 con, lớn nhất sinh năm: 2014, nhỏ nhất sinh năm: 2019;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

9. Họ và tên: Lê Thị Thanh V Tên gọi khác:

Giới tính: Nữ Sinh năm: 1981.

HKTT: Khu phố 4, phường Tấn Tài, Tp.Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 9/12. Họ tên cha: Lê Xuân Tiến - Sinh năm: 1959;

Họ tên mẹ: Phan Thị Thái Lan - Sinh năm: 1962;

Anh chị em ruột: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1988, bị cáo là con thứ nhất trong trong gia đình.

Có 02 con, lớn nhất sinh năm: 2003, nhỏ nhất sinh năm: 2010;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

10. Họ và tên: Nguyễn Thị Minh H Tên gọi khác:

Giới tính: Nữ Sinh năm: 1969.

HKTT: Thôn An Thạnh 2, xã An Hải, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 5/12.

Họ tên cha: Không có;

Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Sen (đã chết);

Anh chị em ruột: Có 02 người, lớn nhất sinh năm 1960, nhỏ nhất sinh năm 1969, bị cáo là con thứ hai trong trong gia đình.

Có 03 con, lớn nhất sinh năm: 1989, nhỏ nhất sinh năm: 1996;

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 03/01/2020 Công an phường Phủ Hà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 200.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự khu dân cư”;

Bị cáo đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

( Các bị cáo có mặt tại phiên tòa) .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 12/4/2020, Nguyễn Khoa N và Nguyễn Mạnh T cùng nhau đến quán cà phê NYC tại số nhà 50 đường Nguyễn Trãi, thuộc Khu phố 4, phường Kinh Dinh, TP. Phan Rang – Tháp Chàm do Phạm Thị Tuyết T làm chủ để uống cà phê. Tại đây, Nhân và Toàn gặp Trương Vũ B, Trần Lâm Tịnh Tr, Lê Thị Thanh V , Đặng Văn D, Lê Văn Th, Lâm Văn Thái, Nguyễn Thị Minh H và Phạm Thị Tuyết T nên đã rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh bài binh xập xám ăn thua bằng tiền. Quá trình đánh bạc, Nhân, Bảo, Toàn, Trí là những người trực tiếp cầm bài đánh (04 cửa chính), những người còn lại tham gia đặt kế tiền vào các cửa chính, trong đó: Thanh, Trinh, Hiền đặt tiền tại cửa của Trí; Thái đặt tiền tại cửa của Toàn; Dần và Vân đặt tiền tại cửa của Nhân. Hình thức sát phạt của các con bạc như sau: 04 người trực tiếp cầm bài đánh thay phiên nhau làm cái, mỗi người làm cái 02 ván sau đó chuyển cho người kế tiếp làm cái, số tiền đặt cược ở mỗi cửa từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng do người làm cái quy định. Những người ngồi ngoài đặt ké tiền vào các cửa, số tiền đặt cược không được vượt quá số tiền do người làm cái ở ván đó quy định. Sau khi chia bài xong, người cầm cái đổ hạt xúc xắc ra tô sứ và 04 người đánh chính thay nhau bóc bài theo điểm xúc xắc từ cao đến thấp để tránh gian lận, sau khi tính bài trên tay ở mỗi cửa xong thì người làm cái đưa bài ra so với bài của ba người còn lại, nếu bài người làm cái cao điểm nhất thì ba người còn lại phải chung tiền cho người làm cái, nếu bài người làm cái thua bài của một trong ba người còn lại thì phải chung tiền cho người đó. Các đối tượng tham gia đánh bạc từ khoảng 13 giờ đến 14 giờ ngày 12/4/2020 thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang đưa về Công an tỉnh Ninh Thuận làm việc. Tạm giữ tại chiếu bạc số tiền 29.550.000 đồng, tạm giữ xung quanh vị trí đánh bạc số tiền 11.900.000 đồng, các dụng cụ dùng để đánh bạc gồm 02 bộ bài tây; 03 (ba) hột xí ngầu; 01 chén bằng sứ, màu trắng có kích thước (11 x 06) cm; 01 tô bằng sứ, màu trắng có kích thước (15 x 08) cm; 01 tấm chăn màu xanh, 01 ca nhựa có kích thước (15 x 21) cm. Tạm giữ từ các đối tượng đánh bạc các tài sản gồm: Số tiền 132.210.000 đồng, 13 điện thoại di động và 08 xe mô tô các loại .

Quá trình điều tra xác định: Quán cà phê NYC tại số nhà 50 đường Nguyễn Trãi, thuộc Khu phố 4, phường Kinh Dinh, TP.Phan Rang - Tháp Chàm do Phạm Thị Tuyết T làm chủ. Để phục vụ nhu cầu của một số khách quen đến uống cà phê, đồng thời để tăng doanh thu bán cà phê trong mùa dịch Covid-19, Trinh đã chuẩn bị sẵn các dụng cụ, gồm: 02 bộ bài tây loại 52 lá, 03 hột xí ngầu, 01 chén sứ, 01 tô sứ, 01 tấm chăn xanh cho khách sử dụng đánh bạc tại quán nếu khách có nhu cầu. Trong ngày 12/4/2020, tại quán cà phê NYC, Nguyễn Khoa N, Trương Vũ B, Nguyễn Mạnh T, Trần Lâm Tịnh Tr, Phạm Thị Tuyết T, Đặng Văn D, Lê Thị Thanh V , Lê Văn Th, Lâm Văn Thái, Nguyễn Thị Minh H cùng tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh bài binh xập xám ăn thua bằng tiền thì bị bắt quả tang. Ngoài số tiền 29.550.000 đồng thu được trên chiếu bạc, các đối tượng còn dùng số tiền 43.460.000 đồng mang theo trên người để đánh bạc, cụ thể: Nguyễn Khoa N dùng số tiền 2.600.000 đồng, Trương Vũ B dùng số tiền 10.000.000 đồng, Phạm Thị Tuyết T dùng số tiền 3.250.000 đồng, Lê Văn Th dùng số tiền 12.100.000 đồng, Lâm Văn Thái dùng số tiền 12.000.000 đồng, Đặng Văn D dùng số tiền 60.000 đồng, Nguyễn Thị Minh H dùng số tiền 3.350.000 đồng, Nguyễn Mạnh T dùng số tiền 100.000 đồng. Riêng số tiền tạm giữ xung quanh vị trí đánh bạc là 11.900.000 đồng, quá trình điều tra xác định đây là tiền của Nguyễn Thị Minh H hốt huê vào ngày 12/4/2020, không dùng để đánh bạc. Như vậy, tổng số tiền chứng minh được các đối tượng dùng để đánh bạc vào ngày 12/4/2020 là 29.550.000 đồng + 43.460.000 đồng = 73.010.000 đồng (Bảy mươi ba triệu không trăm mười nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án:

- Đối với các dụng cụ dùng để đánh bạc gồm: 02 bộ bài tây; 03 (ba) hột xí ngầu; 01 chén bằng sứ, màu trắng có kích thước (11 x 06) cm; 01 tô bằng sứ, màu trắng có kích thước (15 x 08) cm; 01 tấm chăn màu xanh, 01 ca nhựa có kích thước (15 x 21) cm, cơ quan điều tra đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 73.010.000 đồng (Bảy mươi ba triệu không trăm mười nghìn đồng), Cơ quan điều tra đề nghị tịch thu sung Ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 100.650.000 đồng tạm giữ trên người các bị cáo và xung quanh vị trí đánh bạc không sử dụng để đánh bạc, gồm: 30.000.000 đồng của Nguyễn Mạnh T; 3.900.000 đồng của Trần Lâm Tịnh Tr; 23.450.000 đồng của Lê Thị Thanh V ;

26.900.000 đồng của Nguyễn Thị Minh H và 16.400.000 đồng của Lâm Văn Thái, Cơ quan điều tra đề nghị trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp;

- Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản gồm điện thoại và xe mô tô không sử dụng vào mục đích đánh bạc cho chủ sở hữu gồm: Trả 01 điện thoại di động hiệu IphoneX, màu trắng cho Nguyễn Khoa N; Trả 01 xe mô tô biển số 85R2 – 1008, nhãn hiệu Wave, màu xanh cho bà Đinh Thị Ngọc Đồng; Trả 01 điện thoại di động hiệu IphoneX, màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím; 01 xe mô tô biển số 85D1 – 229.59, nhãn hiệu Yamaha – Exciter, màu trắng đỏ; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy 004626 cho Đặng Văn D; Trả 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen; 01 xe mô tô biển số 85B1-216.69, nhãn hiệu Wave, màu đỏ cho Lâm Văn Thái; Trả 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen;

01 xe mô tô biển số 85B1 – 670.98, nhãn hiệu Honda-Blade, màu trắng đen cho Lê Thị Thanh V ; Trả 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Mobiistar, màu đen; 01 xe mô tô biển số 85D1-374.49, nhãn hiệu Vision, màu trắng cho Nguyễn Thị Kim Hiền; Trả 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu xanh nhạt cho Phạm Thị Tuyết T;Trả 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu vàng đồng, loại bàn phím; 01 xe mô tô biển số 85B1-292.76, nhãn hiệu Yamaha – Nouvo, màu xanh trắng; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy số 035146 cho Lê Văn Th; Trả 01 điện thoại di động hiệu IphoneX, màu trắng cho Trần Lâm Tịnh Tr; Trả 01 xe mô tô biển số 85B1-652.21, nhãn hiệu Janus, màu đen cho chị Bùi Thị Diễm; Trả 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen cho Trương Vũ B;

- Đối với xe mô tô biển số 85B1-542.61, nhãn hiệu Honda – Vision, màu đỏ, có số máy JF66E0165718, số khung RLHJF5818GY165707, tạm giữ của Phạm Thị Tuyết T. Quá trình điều tra xác định: Vào năm 2017, Trinh nhận cầm cố xe mô tô này từ một người thanh niên tên Ken (chưa rõ nhân thân lai lịch) với giá 8.000.000 đồng, sau đó Ken không đến chuộc xe nên Trinh sử dụng để đi lại đến nay. Qua xác minh nguồn gốc xe mô tô, xác định: Biển số 85B1-542.61 là biển số giả, theo thông tin tra cứu số khung, số máy xác định đây là tài sản của ông Dương Văn Bông (sinh năm 1981, trú tại Khu phố 6, phường Kinh Dinh, TP.Phan Rang-Tháp Chàm) có biển số thật là 85B1-532.16. Ông Bông bị mất trộm xe vào ngày 19/7/2017 tại Khu phố 1, phường Mỹ Bình, TP.Phan Rang-Tháp Chàm. Hiện Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông Bông, đồng thời, tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ vụ việc trộm cắp tài sản nêu trên để xử lý theo quy định pháp luật.

Bản Cáo trạng số: 154/CT- VKSPRTC ngày 09 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã truy tố các bị cáo Nguyễn Khoa N, Trương Vũ B, Nguyễn Mạnh T, Trần Lâm Tịnh Tr, Lê Văn Th, Đặng Văn D, Lâm Văn Thái, Lê Thị Thanh V và Nguyễn Thị Minh H về Tội Đánh bạc theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 321; truy tố bị cáo Phạm Thị Tuyết T về các tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 2 Điều 321 và tội Gá bạc theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ph – Th giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Khoa N, Trương Vũ B, Nguyễn Mạnh T, Trần Lâm Tịnh Tr, Lê Văn Th, Đặng Văn D, Lâm Văn Thái, Lê Thị Thanh V và Nguyễn Thị Minh H phạm tội Đánh bạc; Bị cáo Phạm Thị Tuyết T về tội Đánh bạc và tội Gá bạc.

Đối với bị cáo Phạm Thị Tuyết T: Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35, Điều 54 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Phạm Thị Tuyết T từ 30.000.000đ đến 40.000.000đ về tội “Đánh bạc”.

Áp dụng: Điểm b,c khoản 2 Điều 322; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 54 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Phạm Thị Tuyết T từ 80.000.000đ đến 100.000.000đ về tội “Gá bạc”;

Buộc bị cáo Phạm Thị Tuyết T phải chấp hành chung hình phạt của các khoản tiền phạt cộng lại từ 110.000.000đ đến 140.000.000đ.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Khoa N từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 12/4/2020 và chuyển tạm giam đến ngày 09/6/2020.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trương Vũ B từ 40.000.000đ đến 50.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T từ 40.000.000đ đến 50.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Lâm Tịnh Tr từ 40.000.000đ đến 50.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Văn Th từ 30.000.000đ đến 40.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đặng Văn D từ 25.000.000đ đến 30.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lâm Văn Thái từ 30.000.000đ đến 40.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b, khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thanh V từ 25.000.000đ đến 30.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Minh H từ 30.000.000đ đến 40.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Do áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Trinh, Bảo, Toàn, Trí, Thanh, Thái, Dần, Vân và Hiền.

Do bị cáo Nguyễn Khoa N không có thu nhập ổn định, nên đề nghị Toà án không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

* Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 73.010.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc;

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây; 03 (ba) hột xí ngầu; 01 chén bằng sứ, màu trắng có kích thước (11 x 06) cm; 01 tô bằng sứ, màu trắng có kích thước (15 x 08) cm; 01 tấm chăn màu xanh, 01 ca nhựa có kích thước (15 x 21) cm.

- Trả lại cho chủ sở hữu các tài sản sau:

+ Trả lại số tiền 30.000.000 đồng cho Nguyễn Mạnh T;

+ Trả lại số tiền 23.450.000 đồng cho Lê Thị Thanh V ;

+ Trả lại số tiền 26.900.000 đồng cho Nguyễn Thị Minh H ;

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.900.000 đồng Trần Lâm Tịnh Tr để đảm bảo cho quá trình thi hành án;

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 16.400.000 đồng của Lâm Văn Thái để đảm bảo cho quá trình thi hành án.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên Tòa, các bị cáo khai: Các bị cáo xác định bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố các bị cáo Nguyễn Khoa N, Trương Vũ B, Nguyễn Mạnh T, Trần Lâm Tịnh Tr, Lê Văn Th, Đặng Văn D, Lâm Văn Thái, Lê Thị Thanh V và Nguyễn Thị Minh H về tội Đánh bạc theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321; truy tố bị cáo Phạm Thị Tuyết T về các tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 2 Điều 321 và tội Gá bạc theo quy định tại điểm b,c khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự  đúng. Tại phiên Tòa, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của các bị cáo, các bị cáo cảm thấy rất ăn năn, hối hận về việc đã làm. Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, tang vật của vụ án và lời khai người làm chứng. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 12/4/2020, tại quán cà phê NYC số 50 đường Nguyễn Trãi, thuộc Khu phố 4, phường Kinh Dinh, TP.Phan Rang - Tháp Chàm, Nguyễn Khoa N, Trương Vũ B, Nguyễn Mạnh T, Trần Lâm Tịnh Tr, Phạm Thị Tuyết T, Đặng Văn D, Lê Thị Thanh V , Lê Văn Th, Lâm Văn Thái, Nguyễn Thị Minh H cùng tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh bài binh xập xám ăn thua bằng tiền, với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 73.010.000 đồng (Bảy mươi ba triệu không trăm mười nghìn đồng) thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Đối với Phạm Thị Tuyết T, để tăng doanh thu buôn bán trong mùa dịch Covid-19, vào ngày 12/4/2020, Trinh sử dụng quán cà phê NYC thuộc quyền quản lý của mình và chuẩn bị các công cụ, phương tiện để cho các đối tượng tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền với tổng số tiền dùng đánh bạc là 73.010.000 đồng (bảy mươi ba triệu không trăm mười nghìn đồng).

[3] Đánh bạc và gá bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý hành chính, trật tự công cộng, ảnh hưởng nếp sống văn minh của xã hội và là tệ nạn của xã hội nên Nhà nước nghiêm cấm nhưng các bị cáo cố ý thực hiện. Do đó cần xét xử các bị cáo mức án tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo để có tác dụng cải tạo giáo dục và góp phần phòng chống tội phạm.

[4]. Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức.

Xét nhân thân của các bị cáo khác nhau nên cần phân hóa, xử lý cho phù hợp.

[4.1] Đối với bị cáo Phạm Thị Tuyết T:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Phạm Thị Tuyết T chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo Phạm Thị Tuyết T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo đang nuôi con nhỏ có xác nhận của chính quyền địa phương đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Phạm Thị Tuyết T ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.2] Đối với bị cáo Nguyễn Khoa N:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 10/4/2020 bị Công an phường Kinh Dinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng, tuy nhiên, đây không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ xem xét đến nhân thân xấu của bị cáo để Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Trong khi thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới về hành vi Đánh bạc và sử dụng trái phép chất ma túy và đang bị khởi tố trong vụ án hình sự khác.

Bị cáo Nguyễn Khoa N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo Nguyễn Khoa N ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, tuy nhiên cũng cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật để bị cáo yên tâm cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.3] Đối với bị cáo Trương Vũ B:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 15/7/2003 bị Công an phường Kinh Dinh, thành phố Ph – Th xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau hình thức phạt tiền 50.000 đồng và ngày 18/6/2004, bị TAND thị xã Ph – Th (nay là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm) xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 03 năm về tội “ Cố ý gây thương tích”, bị cáo đã chấp hành xong, (đã xóa án tích) nên không coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ xem xét đến nhân thân xấu của bị cáo để Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt đối với bị cáo;

Bị cáo Trương Vũ B kng có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Trương Vũ B ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.4] Đối với bị cáo Nguyễn Mạnh T:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 10/4/2020 bị Công an phường Kinh Dinh, thành phố Ph – Th xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng; Ngày 20/6/2018, bị Công an huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng và ngày 29/3/2019 bị Chủ tịch UBND phường Mỹ Hương, thành phố Ph – Th xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi đánh nhau, tuy nhiên, đây không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ xem xét đến nhân thân xấu của bị cáo để Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt đối với bị cáo;

Bị cáo Nguyễn Mạnh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Nguyễn Mạnh T ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.5] Đối với bị cáo Trần Lâm Tịnh Tr :

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Trần Lâm Tịnh Tr chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo Trần Lâm Tịnh Tr không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Trần Lâm Tịnh Tr ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.6] Đối với bị cáo Lê Văn Th:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 28/11/2014 bị Công an phường Văn Hải, thành phố Ph – Th xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hình thức phạt tiền 1.500.000đồng và ngày 10/9/2016 bị Công an phường Văn Hải, thành phố Ph – Th xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng, tuy nhiên, đây không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ xem xét đến nhân thân xấu của bị cáo để Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt đối với bị cáo;

Bị cáo Lê Văn Th không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Lê Văn Th ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.7] Đối với bị cáo Đặng Văn D:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Đặng Văn D chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo Đặng Văn D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Đặng Văn D ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.8] Đối với bị cáo Lâm Văn Thái:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Lâm Văn Thái chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo Lâm Văn Thái không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Lâm Văn Thái ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.9] Đối với bị cáo Lê Thị Thanh V :

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Lê Thị Thanh V chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo Lê Thị Thanh V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hi đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo Lê Thị Thanh V ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4.10] Đối với bị cáo Nguyễn Thị Minh H :

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 03/01/2020 bị Công an phường Phủ Hà, thành phố Ph – Th xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “ Gây mất trật tự khu dân cư” hình thức phạt tiền 200.000 đồng, tuy nhiên, đây không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ xem xét đến nhân thân xấu của bị cáo để Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt đối với bị cáo;

Bị cáo Nguyễn Thị Minh H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, Gia đình bị cáo có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy bị cáo Nguyễn Thị Minh H có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, bị cáo có tài sản và thu nhập ổn định, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có thu lợi bất chính không lớn. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật nên không cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà áp dụng hình phạt tiền cũng có tác dụng răn đe, giáo dục và góp phần phòng chống tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng về tội Đánh bạc và từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng về tội Gá bạc. Do áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 73.010.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc;

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây; 03 (ba) hột xí ngầu; 01 chén bằng sứ, màu trắng có kích thước (11 x 06) cm; 01 tô bằng sứ, màu trắng có kích thước (15 x 08) cm; 01 tấm chăn màu xanh, 01 ca nhựa có kích thước (15 x 21) cm.

- Trả lại cho chủ sở hữu các tài sản sau:

+ Trả lại số tiền 30.000.000 đồng cho Nguyễn Mạnh T;

+ Trả lại số tiền 23.450.000 đồng cho Lê Thị Thanh V ;

+ Trả lại số tiền 26.900.000 đồng cho Nguyễn Thị Minh H ;

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền số tiền 16.400.000 đồng của Lâm Văn Thái để bảo đảm thi hành án;

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.900.000 đồng của Trần Lâm Tịnh Tr để bảo đảm thi hành án.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức phạt, xử lý vật chứng, đối với các bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

Các bị cáo Nguyễn Khoa N, Trương Vũ B, Nguyễn Mạnh T, Trần Lâm Tịnh Tr, Đặng Văn D, Lê Thị Thanh V , Lê Văn Th, Lâm Văn Thái, Nguyễn Thị Minh H phạm tội “Đánh bạc”.

Bị cáo Phạm Thị Tuyết T phạm các tội “Đánh bạc” và “Gá bạc”.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 35; Điều 54 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Tuyết T 40.000.000đ ( Bốn mươi triệu) sung quỹ Nhà nước về tội “Đánh bạc”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 322; Điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 35, Điều 54 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Tuyết T 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng ) sung quỹ Nhà nước về tội “Gá bạc”;

Buộc bị cáo Phạm Thị Tuyết T phải chấp hành chung là 120.000.000đ (Một trăm hai mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Khoa N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được khấu trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 12/4/2020 và chuyển tạm giam đến ngày 09/6/2020.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trương Vũ B 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Lâm Tịnh Tr 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Văn Th 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đng Văn D 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b, khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lâm Văn Thái 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b, khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thanh V 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điểm b, khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Minh H 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 73.010.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc;

- Trả lại cho chủ sở hữu các tài sản sau:

+ Trả lại số tiền 30.000.000 đồng cho Nguyễn Mạnh T;

+ Trả lại số tiền 23.450.000 đồng cho Lê Thị Th V ;

+ Trả lại số tiền 26.900.000 đồng cho Nguyễn Thị Minh H ;

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền số tiền 16.400.000 đồng của Lâm Văn Thái để bảo đảm thi hành án;

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.900.000 đồng của Trần Lâm Tịnh Tr để bảo đảm thi hành án.

( Theo Ủy nhiệm chi số: 51 ngày 27/11/2020).

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây; 03 (ba) hột xí ngầu; 01 chén bằng sứ, màu trắng có kích thước (11 x 06) cm; 01 tô bằng sứ, màu trắng có kích thước (15 x 08) cm; 01 tấm chăn màu xanh, 01 ca nhựa có kích thước (15 x 21) cm.

(Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/12/2020 giữa Công an thành Ph và Chi cục thi hành án dân sự thành phố thành Ph).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (Ngày 20/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội đánh bạc và gá bạc

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về