Bản án 11/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội giết người (chưa đạt)

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI (CHƯA ĐẠT)

Ngày 13 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2021, đối với:

Bị cáo: Đinh Thị S, sinh ngày 02 tháng 10 năm 1986 tại huyện V, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: thôn R, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Công Ch sinh năm 1953 và bà Đinh Thị T sinh năm 1949; chồng là Hoàng Văn B (là bị hại trong vụ án) và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16-12-2020, hiện tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Yên Bái, Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: bà Nguyễn Thị H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Chi nhánh số 1, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái; Có mặt.

Bị hại: Hoàng Văn B sinh năm 1973; trú tại: thôn R, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: bà Hà Thị L sinh năm 1965; trú tại: thôn R, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái;Có mặt.

Những người làm chứng:

- Chị Hoàng Thị M sinh năm 1976; trú tại: thôn R, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; Có mặt.

- Chị Hà Thị N sinh năm 1973; trú tại: thôn R, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; Có mặt.

- Anh Hoàng Văn T sinh năm 1971; trú tại: thôn R, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; Có mặt.

- Chị Vũ Thị A sinh năm 1976; trú tại: thôn TT, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; Có mặt.

- Anh Nguyễn Quang K sinh năm 1980; trú tại: thôn TT, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; Có mặt.

- Anh Hoàng Đình C sinh năm 1986; trú tại: thôn R, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như Su:

Do quá trình chung sống giữa Đinh Thị S và chồng là anh Hoàng Văn B có nhiều mâu thuẫn, S phát sinh quan hệ ngoại tình, nên đã nảy sinh ý định giết anh B để có thể được chung sống với người đàn ông khác. Ngày 07-12-2020, Đinh Thị S đến cửa hàng bán thuốc y tế của anh Nguyễn Quang K tại thôn TT, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái mua 01 vỉ thuốc ngủ có 10 viên hình tròn, mầu xanh giá 25.000 đồng. Sau đó, S đến đại lý bán thuốc bảo vệ thực vật của chị Vũ Thị A tại thôn TT, xã BT, huyện V, tỉnh Yên Bái mua 02 chai thuốc trừ cỏ nhãn hiệu OWEN giá 50.000 đồng mang về cất giấu phía sau nhà. Đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 11-12-2020, S thấy anh B đi uống rượu về nhà vẫn còn say. Sau khi ăn cơm xong, S đưa cho anh B 04 viên thuốc ngủ và nói dối là thuốc bổ để anh B uống nhằm mục đích giết anh B. Để tạo lòng tin, S cũng uống 02 viên (Khi mua S được hướng dẫn khi mất ngủ thì uống 02 viên, nên S nghĩ nếu uống 02 viên sẽ không chết còn nếu uống quá liều thì sẽ làm chết người). Khoảng 15 phút sau, thấy anh B vẫn không chết nên S đã lấy một cốc bằng nhựa, đổ đường ăn, thuốc trừ cỏ và nước uống nấu bằng lá cây hòa lẫn nhau rồi đưa anh B uống. S nói dối là “ Nước C sủi pha với lá Cơm Kìa”. Anh B uống một ngụm thấy có vị đắng nên không uống nữa. S đã đổ số nước còn lại trong cốc đi và cho cốc cùng vỉ thuốc ngủ còn lại vào bếp đốt. S đem số thuốc diệt cỏ còn lại trong lọ đổ ra vườn, cất giấu vỏ lọ thuốc vào bụi cây chuối gần nhà. Khoảng 15 phút sau, anh B thấy đau bụng, buồn nôn nên đã chạy ra ngoài sân nôn, rồi đi sang lán nhà ông Hoàng Văn T ở gần đó gọi ông T: “Cứu cháu với, con S nó cho cháu uống thuốc sâu rồi” và nhờ ông T đưa đi bệnh viện cấp cứu. Lúc này S cũng chạy sang và cùng ông T đưa anh B đến Trung tâm Y tế huyện V để cấp cứu. Đến hồi 16 giờ 30 phút ngày 16-12-2020, Đinh Thị S đến Công an xã BT đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Qua công tác khám nghiệm hiện trường, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành thu giữ vật chứng trong vụ án như sau:

- 01 vỏ chai nhựa mầu trắng, không có nắp đậy có ghi nhãn “THUỐC TRỪ CỎ OWEN 20SL” tại vị trí cách nhà ở của anh Hoàng Văn B 5,8 mét.

- Mẫu chất mầu trắng, xanh và đất tại vị trí tương ứng với vị trí nôn của anh Hoàng Văn B.

- 01 túi nilon mầu đỏ, bên trong có chứa 01 chai nhựa mầu trắng, nắp nhựa mầu đỏ, có ghi nhãn “THUỐC TRỪ CỎ OWEN 20SL”và 01 nắp nhựa mầu đỏ tại ví trí lối mòn cách nhà ở của anh Hoàng Văn B 26,6 mét.

- Mẫu đất và cây khô tại vị trí lối mòn cách góc Tây Nam nhà ở của anh Hoàng Văn B 34,8 mét.

- 01 túi nilon bên ngoài có nhãn “ĐƯỜNG VIỆT NAM”, bên trong có chứa tinh thể mầu trắng tại vị trí giường ngủ ở góc Tây Bắc phía trong nhà ở của anh Hoàng Văn B.

Tại bản Kết luận giám định số: 9229/C09-P4 ngày 31-12-2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công An kết luận:

- Trong mẫu đất và cây; chất mầu trắng, xanh lẫn đất thu tại vị trí nôn của Hoàng Văn B; mẫu chất lỏng mầu xanh đựng trong 01 lọ nhựa nắp mầu đỏ, có nhãn “THUỐC TRỪ CỎ OWEN 20SL” và mẫu chất lỏng mầu xanh đựng trong 01 lọ nhựa không có nắp, có nhãn “THUỐC TRỪ CỎ OWEN 20SL” đều tìm thấy paraquat. Paraquat là thuốc diệt cỏ nhóm Bipyridylium, thuộc nhóm độc I. Theo “Hướng dẫn chẩn đoán và xử lý ngộ độc” ban hành kèm theo Quyết định số 3610/QĐ/BYT ngày 31-8-2015 của Bộ Y tế: Liều ngộ độc nặng dẫn đến tử vong của Paraquat đối với người lớn >40 mg/kg thể trọng theo đường uống.

- Mẫu tinh thể mầu trắng đựng trong 01 túi nilon có nhãn “ĐƯỜNG VIỆT NAM” gửi giám định là Sucrose (đường ăn).

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 31/TgT ngày 18-02- 2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Yên Bái kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Hoàng Văn B hiện tại là 00% (Không phần trăm).

Bản Cáo trạng số: 19/CT-VKS-P2 ngày 20 tháng 4 năm 2021, của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo Đinh Thị S về tội: “Giết người” theo điểm q khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Thị S thừa nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi dùng thuốc ngủ, thuốc trừ cỏ để giết chồng là anh Hoàng Văn B như nội dung bản cáo trạng truy tố. Bị cáo khai nguyên nhân thực hiện hành vi đầu độc chồng là do trong quá trình chung sống, anh B thường xuyên say rượu, đánh chửi bị cáo, khiến bị cáo chán ghét chồng nên đã có quan hệ ngoại tình. Từ đó, bị cáo nảy sinh ý định giết anh Hoàng Văn B với suy nghĩ để được sống với người đàn ông khác.

Bị hại Hoàng Văn B khai nội dung của bản Cáo trạng là đúng với diễn biến vụ việc xảy ra ngày 11-12-2020. Tuy nhiên, anh B cho rằng mâu thuẫn vợ chồng chỉ là va chạm bình thường trong gia đình. Anh B đề nghị Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội tại phiên tòa và giữ nguyên toàn bộ quyết định truy tố:

- Đề nghị tuyên bố bị cáo Đinh Thị S phạm tội “Giết người” chưa đạt.

- Đề nghị áp dụng điểm q khoản 1 Điều 123, Điều 15, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Thị S từ 12 năm đến 13 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hoàng Văn B không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng thu giữ trong vụ án do không còn giá trị sử dụng.

- Đề nghị miễn án phí hình sự cho bị cáo Người bào chữa cho bị cáo Đinh Thị S nhất trí với tội danh và điều luật truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người không được học hành, nhận thức pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình thuộc Hộ nghèo. Bản thân bị cáo là nạn nhân của bạo hành gia đình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tích cực đưa bị hại đi bệnh viện cứu chữa nên hậu quả chết người không xảy ra; Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tự giác ra đầu thú, tại phiên tòa được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức khởi điểm của khung hình phạt là từ 07 năm đến 08 năm tù. Nhất trí với quan điểm của Kiểm sát viên về xử lý vật chứng và miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo Đinh Thị S không có ý kiến bào chữa bổ sung và cũng không có ý kiến tranh luận gì. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như Su:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Đinh Thị S tại phiên toà phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết luận giám định pháp y; được minh chứng bằng vật chứng thu giữ trong vụ án.Từ đó đủ cơ sở kết luận: Ngày 07-12-2020 bị cáo Đinh Thị S đã mua 01 vỉ thuốc ngủ 10 viên, 02 lọ Thuốc trừ cỏ thuộc nhóm độc I mang về nhà cất giấuvới mục đích giết chồng là Hoàng Văn B để được chung sống với người đàn ông khác. Đến ngày 11-12-2020, lợi dụng anh Hoàng Văn B uống rượu say về nhà, Đinh Thị S đã thực hiện hành vi cho anh B uống thuốc ngủ và thuốc trừ cỏ để giết anh B. Do anh B được đưa đi cấp cứu kịp thời nên đã không chết. Hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội Giết người với tình tiết định khung “Vì động cơ đê hèn”. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo Đinh Thị S về tội Giết người theo điểm q khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng. Bị cáo S là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính mạng con người là quan trọng, mà quyền được sống là quyền cơ bản và được pháp luật bảo vệ, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện với động cơ đê hèn, bất chấp luân thường, đạo lý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây nên sự bức xúc, phẫn nộ trong gia đình và xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn tại địa phương, nên cần thiết phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về nhân thân bị cáoĐinh Thị S là phụ nữ dân tộc thiểu số, chưa có tiền án, tiền sự; trình độ học vấn không biết chữ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tự giác đầu thú; Tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Quá trình thực hiện tội phạm, bị cáo đã cho anh B uống 04 viên thuốc ngủ để giết anh B, khi thấy anh B không chết, bị cáo tiếp tục hòa thuốc trừ cỏ với nước uống để cho anh B uống, thể hiện ý thức cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo S được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là không có cơ sở, vì sau khi đầu độc anh Hoàng Văn B, bị cáo thấy anh B không chết và được ông Hoàng Văn T đưa đi cấp cứu, bị cáo chỉ là người đi theo và không thực hiện được hành vi nào nhằm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Do đó, bị cáo cũng không đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xử phạt bị cáo Đinh Thị S với mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần răn đe, phòng ngừa chung. Đồng thời, Hội đồng xét xử cũng áp dụng quy định tại Điều 57 của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo trong trường hợp phạm tội chưa đạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hoàng Văn B không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về áp dụng biện pháp tư pháp:Vật chứng thu giữ trong vụ án được hoãn trả lại sâu khi giám định, hiện đang được niêm phong trong 01 hộp giấy của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, xét không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Đinh Thị S thuộc Hộ nghèo của địa phương năm 2020, nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đinh Thị S phạm tội “Giết người” (chưa đạt).

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm q khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Đinh Thị S 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 16 tháng 12 năm 2020.

2. Về áp dụng biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy: 01 hộp giấy được dán kín niêm phong bằng dấu tròn đỏ của Viện Khoa học hình sưl Bộ Công an và chữ ký kèm họ tên các bên liên quan, bên trong gồm có: 01 túi nilon có nhãn “ĐƯỜNG VIỆT NAM” đựng mẫu tinh thể mầu trắng; 01 túi nilon bên trong chứa 01 nắp nhựa mầu đỏ và 01 lọ nhựa mầu đỏ có nhãn “THUỐC TRỪ CỎ OWEN 20SL” chưa qua sử dụng, bên trong chứa dung dịch mầu xanh; 01 hộp nhựa không mầu, nắp mầu xanh đựng 01 lọ nhựa có nắp có nhãn “THUỐC TRỪ CỎ OWEN 20SL” và chất lỏng mầu xanh.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Bị cáo Đinh Thị S được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội giết người (chưa đạt)

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về