Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC - TỈNH ĐĂK NÔNG 

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 30 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 125/2020/TLST- HNGĐ ngày 30/12/2020 về việc “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST ngày 30/7/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Th; địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt không có lý do.

Người có quyền lợi liên quan: Cháu Nguyễn Thị Hà V, sinh ngày 27/11/2009; cháu Nguyễn Hoàng Â, sinh ngày 08/4/2015; địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông.

Người đại diện theo pháp luật của cháu V, Â:

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – là mẹ cháu V, Â – có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn Th; địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – là cha cháu V, Â – vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị H và anh Th tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 12/03/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện Ph, tỉnh Bình Phước. Sau khi kết hôn, chị và anh sinh sống tại huyện B, tỉnh Bình Phước; đến năm 2015, chuyển đến Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông làm ăn, sinh sống.

Từ năm 2015, hai vợ chồng bất đồng quan điểm, xảy ra nhiều mâu thuẫn và hay cãi nhau; anh Th thường xuyên nhậu nhẹt, chơi bời với bạn bè; mọi chi tiêu, sinh hoạt trong gia đình, tiền học của 02 con đều do Chị H đứng ra lo toan; anh Th có đi làm nhưng không phụ giúp được gì; đến giữa năm 2015, thì anh Th không còn sống chung với Chị H; mọi nợ nần trong gia đình đến nay đều do Chị H chi trả; thỉnh thoảng, anh Th say xỉn ghé về thăm nhà, chửi bới, xúc phạm Chị H; sự việc xảy ra, Chị H không có trình báo chính quyền địa phương; trong thời gian sống ly thân, bị Huế biết được anh Th có quan hệ với người phụ nữ khác. Hiện nay, chị đã không còn tình cảm với anh Th; mục đích hôn nhân không còn đạt được nên chị làm đơn ly hôn với anh Th.

Về con chung: Quá trình chung sống, Chị H và anh Th có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hà V, sinh ngày 27/11/2009 và cháu Nguyễn Hoàng Â, sinh ngày 08/4/2015, nguyện vọng của Chị H là muốn nuôi dưỡng 02 cháu đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng.

Đối với tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Th: Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Th đến trụ sở Toà án để giải quyết ly hôn với Chị H nhưng anh Th vắng mặt. Qua xác minh tại Công an xã Đ xác định: “Anh Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn D, xã Đ, chưa chuyển hộ khẩu đi đâu; thời điểm xác minh không có mặt nhưng thỉnh thoảng vẫn về sinh sống tại địa phương”. Tòa án đã cùng chính quyền địa phương đến nhà anh Th, tuy nhiên anh Th vắng mặt nên không thể tống đạt các văn bản tố tụng được. Tòa án đã niêm yết Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Th theo quy định. Tuy nhiên, anh Th không có ý kiến và không cũng đến Tòa án theo thông báo, quyết định của Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức phát biểu ý kiến:

Toà án nhân dân huyện Tuy Đức thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về người tham gia tố tụng và thu thập chứng cứ: Toà án xác định đúng người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng quy định, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.

- Tại phiên toà sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn từ khi thụ lý vụ án đã được triệu tập nhiều lần nhưng không hợp tác; tại phiên tòa vẫn vắng mặt không do đó chưa thực hiện đầy đủ các quy định tại Điều 70; Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án; căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91 và Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H ly hôn với anh Nguyễn Văn Th.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Hà V, sinh ngày 27/11/2009; cháu Nguyễn Hoàng Â, sinh ngày 08/4/2015 cho Chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001377 ngày 30/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết vào quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Th và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung; anh Th đăng ký thường trú tại Thôn D, xã Đ, huyện T do đó, đây là tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, qua xác minh tại chính quyền địa phương xác định: Anh Th chưa chuyển hộ khẩu đi đâu; thời điểm xác minh không có mặt nhưng thỉnh thoảng vẫn về sinh sống tại địa phương; Tòa án đã triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng anh Th không đến Tòa án làm việc; Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho anh Th theo thủ tục chung nhưng anh không hợp tác, không đến Tòa án làm việc mà không có lý do; không có ý kiến đối với nội dung vụ án, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa ngày 30/7/2021 và phiên tòa hôm nay, anh Th đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do; nguyên đơn Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung: Xét yêu cầu ly hôn của Chị H với anh Th; Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 12/3/2009, chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn Th tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện Ph, tỉnh Bình Phước theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa Chị H và anh Th là hợp pháp.

Xét tình trạng hôn nhân: Chị H cho rằng: Từ năm 2015, hai vợ chồng bất đồng quan điểm nên xảy ra mâu thuẫn; anh Th hay nhậu nhẹt, không quan tâm, phụ giúp Chị H trong công việc gia đình; anh Th không còn chung sống với chị từ năm 2015; thỉnh thoảng, say xỉn về ghé thăm nhà, chửi bới, xúc phạm chị. Hiện nay, chị đã không còn tình cảm với anh Th. Đối với anh Th, khi Chị H nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, anh Th cũng không có động thái nào để hàn gắn tình cảm; quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ, anh Th vắng mặt tại phiên hòa giải và phiên tòa là thể hiện thái độ không còn mong muốn đoàn tụ. Với thực trạng hôn nhân nói trên cho thấy mâu thuẫn giữa Chị H và anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của Chị H với anh Th là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật.

[4]. Về con chung: Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa thành niên là cháu Nguyễn Thị Hà V, sinh ngày 27/11/2009; cháu Nguyễn Hoàng Â, sinh ngày 08/4/2015. Tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con;

…”. Do anh Th vắng mặt nên không thỏa thuận được với Chị H về người trực tiếp nuôi con chung; hiện tại, cháu V, Â đang sống chung với Chị H; để tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo sự phát triển bình thường cho các cháu nên Hội đồng xét xử giao cháu V, Â cho Chị H được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng; trường hợp, anh Th có yêu cầu về con chung sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác. Chị H không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001377 ngày 30/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H.

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H ly hôn với anh Nguyễn Văn Th.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Hà V, sinh ngày 27/11/2009; cháu Nguyễn Hoàng Â, sinh ngày 08/4/2015 cho Chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi đủ tuổi thành niên.

Anh Nguyễn Văn Th có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001377 ngày 30/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về