Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa ông V và bà L

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA ÔNG V VÀ BÀ L

Ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 380/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Ông N H V, sinh ngày 07-7-1977 (có mặt) Nơi cư trú: Tổ 31, ấp B A 1, xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang.

2.Bị đơn: Bà T T L, sinh năm 1977 (có mặt) Nơi cư trú: Tổ 31, ấp B A 1, xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai ngày 05-10-2020; quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn ông N H V trình bày:

+Về hôn nhân: Ông và bà T T L kết hôn vào năm 2012, hôn nhân do quen biết, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang số 83 ngày 15-5-2012. Sau khi cưới vợ chồng sống ở tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến đầu tháng 3/2019, ông về quê sinh sống, đến tháng 4/2020, bà L về quê sinh sống, vợ chồng chung sống đến tháng 7/2020 thì bà L bỏ nhà ra đi không sống chung với ông. Do bất đồng quan điểm sống, không rõ ràng về tiền bạc. Nay ông nhận thấy không còn tình cảm với bà L, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với bà T T L.

+Về con chung: Có 01 con chung tên N K T, sinh ngày 25-6-2014. Hiện ông đang nuôi con. Nếu ly hôn tùy vào nguyện vọng của con. Nếu con muốn sống với ông thì ông nuôi. Nếu con muốn sống với bà L thì bà L nuôi.

+Về cấp dưỡng nuôi con: Nếu ông nuôi con, ông không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con.

+Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện tại sức khỏe ông đã bình phục 90%, ông đang làm công nhân cơ khí đóng tàu, thu nhập theo sản phẩm, bình quân khoảng 15.000.000đ đến 20.000.000đ trên tháng.

Tại tờ tự khai ngày 21-10-2020; quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn bà T T L trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của ông V về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn, thời gian chung sống, thời gian sống ly thân.

+Về hôn nhân: Bà và ông N H V kết hôn vào năm 2012, hôn nhân do quen biết ở Bình Dương, có tổ chức đám cưới tại xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang số 83 ngày 15-5-2012. Sau khi cưới vợ chồng sống ở tỉnh Bình Dương làm công nhân. Vợ chồng chung sống hạnh phúc. Năm 2016, ông V bị bệnh tai biến mạch máu não, cuộc sống gia đình bà lo, nên bà gửi con về nhờ dì ruột bên chồng nuôi hộ khoảng 3 năm. Tháng 3/2019, ông V về quê là nhà cha mẹ chồng sống và nuôi con. Đến tháng 4/2020, bà về nhà cha mẹ chồng sinh sống. Đến tháng 7/2020, do có trục trặc về bảo hiểm xã hội nên bà phải lên tỉnh Bình Dương để điều chỉnh; khi trở về nhà gia đình bên chồng và chồng không cho vào nhà, bà phải đi thuê nhà trọ để sống. Về nguyên nhân mâu thuẫn, do ông V nghe lời mẹ chồng hất hủi không muốn ông V sống với bà nên kiếm chuyện ly hôn. Nay ông V cương quyết xin ly hôn, bà không thể không đồng ý ly hôn.

+Về con chung: Có 01 con chung tên N K T, sinh ngày 25-6-2014. Hiện ông V đang nuôi con. Nếu ly hôn do ông V đang bị bệnh tai biến mạch máu não, mẹ chồng thì già yếu không thể chăm sóc nuôi dưỡng con cháu nên bà yêu cầu được nuôi con.

+Về cấp dưỡng nuôi con: Nếu bà nuôi con, bà không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.

+Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện tại bà đang đi bán lẻ bánh theo chợ. Thu nhập tiền lãi mỗi ngày 450.000đ. Bà có nhà ở quê Thôn 4, xã X T, huyện T S, tỉnh Thanh Hóa. Hiện bà đang sống trọ tại nhà trọ N N ấp A H, xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang.

Tại biên bản hòa giải ngày 11-11-2020 và tại phiên tòa, cháu N K T, sinh ngày 25-6-2014 trình bày: Lúc nhỏ cháu sống với bà Út, khi cha về cháu đang sống với cha, cháu học lớp 1Đ, trường tiểu học A A H. Nếu cha mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng sống với cha, cháu không muốn sống với mẹ, do mẹ cháu đi làm không có ai ở nhà với cháu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hôn nhân: Ông N H V và bà T T L kết hôn vào năm 2012, hôn nhân do quen biết, tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang số 83 ngày 15-5-2012 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Ông V có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa ông V và bà L nhưng bà L không đồng ý ly hôn, bà xác định vợ chồng không bất hòa, do ông V nghe lời mẹ chồng hất hủi không muốn ông V sống với bà, bà mong Tòa án hòa giải đoàn tụ. Từ tháng 7/2020, ông V và bà L sống ly thân cho đến nay. Từ sau khi sống ly thân, cũng như sau khi tòa án tổ chức hòa giải cho đến nay cả ông V và bà L đều không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa ông V và bà L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông V được ly hôn với bà L là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về con chung: Ông N H V và bà T T L có 01 con chung. Ông V đang nuôi con. Ông V tùy vào nguyện vọng của con, bà L có yêu cầu được nuôi con.

Xét thấy: Cháu T hiện đang sống với ông V, ông V nuôi cháu chu đáo, cháu được đi học, cháu có nguyện vọng sống với ông V khi ông V và bà L ly hôn. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho ông V được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp.

Ông N H V và các thành viên trong gia đình ông V không được cản trở bà T T L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà T T L lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông V có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của bà L theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông N H V không yêu cầu bà T T L cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông N H V và bà T T L thống nhất trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, nguyên đơn ông N H V phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007237 ngày 13-10-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[6] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; nguyên đơn ông N H V, bị đơn bà T T L có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27-01-2021).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Các Điều 9, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Xử:

[1] Về hôn nhân: Ông N H V được ly hôn với bà T T L.

Giấy chứng nhận kết hôn số 83 ngày 15-5-2012 của Ủy ban nhân dân xã A H, huyện C T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

[2] Về con chung: Ông N H V được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên N K T, sinh ngày 25-6-2014.

Ông N H V và các thành viên trong gia đình ông V không được cản trở bà T T L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà T T L lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông V có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của bà L theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về án phí: Nguyên đơn ông N H V phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007237 ngày 13-10-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông N H V, bị đơn bà T T L có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27-01-2021).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa ông V và bà L

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về