Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 22/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN N HUYỆN PHƯỚC LONG, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 22 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long xét xử công khai vụ án thụ lý số 269/2020/TLST - HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐST - HNGĐ ngày 08 tháng 02 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Trúc L, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp Phước 3B, xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu

- Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1993. Địa chỉ: Ấp Phước 3B, xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu (Chị Nguyễn Trúc L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Trần Văn H vắng mặt) bày:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn và các lời khai tại Tòa án chị Nguyễn Trúc L trình - Về hôn nhân: Chị Nguyễn Trúc L và anh Trần Văn H kết hôn với nhau vào năm 2015, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 19/9/2017. Trong thời gian gần đây thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, không có sự quan tâm, chăm sóc nhau và hiện nay đã sống ly thân. Do nhận thấy đời sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được chị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Quá trình sống giữa chị L và anh H có với nhau 02 người con chung là Trần Nguyễn Thủy Tiên, sinh ngày 09/01/2017 và Trần Nguyễn Bảo Thy, sinh ngày 30/10/2018. Hiện nay cả hai người con đang sống với chị L. Khi ly hôn chị L yêu cầu được nuôi 02 người con và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng/người con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Văn H đã được Tòa án nhân dân huyện Phước Long tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh H vẫn cố tình vắng mặt, không có lý do và không có ý kiến gửi cho Tòa án.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước long phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định của pháp luật tó tụng dân sự; đối với nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng , bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại khoản 15, 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Trúc L và anh Trần Văn H có đăng ký kết hôn theo quy định nên hôn nhân giữa chị L và anh H là hợp pháp. Quá trình sống chung vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, đời sống hôn nhân không hạnh phúc. Căn cứ Điều 19, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị L ly hôn với anh H;

+ Về con chung: Giao 02 người con chung là Trần Nguyễn Thủy Tiên, sinh ngày 09/01/2017 và Trần Nguyễn Bảo Thy, sinh ngày 30/10/2018 cho chị Nguyễn Trúc L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Tiên, Thy tròn 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định pháp luật.

+ Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Trần Văn H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật mỗi tháng là 745.000 đông/người con.

+ Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét giải quyết do không có yêu cầu

+ Về án phí: Chị Nguyễn Trúc L phải chịu 300.000 đồng; anh Trần Văn H phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Trúc L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Trần Văn H là tranh chấp về hôn nhân gia đình về việc “Ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. Anh Trần Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, chị L có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt chị L, anh H là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Trúc L và anh Trần Văn H sống chung từ năm 2015 và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị L, anh H là hợp pháp, tuy nhiên trong quá trình sống chung chị L và anh H xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện nay đã sống ly thân. Xét thấy, theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình, sống chung với nhau nhưng chị L và anh H không có sự quan tâm, chăm sóc nhau trong cuộc sống, đã sống ly thân với nhau. Quá trình giải quyết vụ án anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh H không đến, cho thấy anh H đã bỏ mặc quan hệ hôn nhân này. Trong khi đó, chị L xác định không còn tình cảm gì với anh H và cương quyết ly hôn. Từ đó cho thấy hôn nhân giữa chị Nguyễn Trúc L và anh Trần Văn H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L được ly hôn với anh H.

[3] Về con chung: Có 02 người con chung là Trần Nguyễn Thủy Tiên, sinh ngày 09/01/2017 và Trần Nguyễn Bảo Thy, sinh ngày 30/10/2018. Hiện nay 02 người con đang sống với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi cả 02 người con.

Khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Trần Nguyễn Thủy Tiên, sinh ngày 09/01/2017 và Trần Nguyễn Bảo Thy, sinh ngày 30/10/2018 còn nhỏ và đều là nữ cần sự quan tâm chăm sóc của chị L, nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của chị L không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Trúc L yêu cầu anh Trần Văn H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng/người con.

t: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là trách nhiệm nghĩa vụ của cả chị Nguyễn Trúc L và anh Trần Văn H. Để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho cháu Trần Nguyễn Thủy Tiên và cháu Trần Nguyễn Bảo Thy có cuộc sống đảm bảo cũng như phát triển bình thường. Hội đồng xét xử cần xem xét đến điều kiện kinh tế của mỗi người để áp dụng mức cấp dưỡng cho phù hợp với thực tế.

Chị Nguyễn Trúc L đề nghị Tòa án buộc anh Trần Văn H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng/người con. Để chấp nhận đề nghị của chị L cần xem xét đến điều kiện kinh tế của anh Trần Văn H. Tuy nhiên chị L không đưa ra được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh mức thu nhập hiện nay là bao nhiêu. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định hiện nay buộc anh Trần Văn H phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi người con là 745.000 đồng/tháng.

[5] Về tài sản chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết [6] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Trúc L phải chịu 300.000 đồng, chị L đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng được chuyển thu án phí. Anh Trần Văn H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 1 Điều 56, khoản 2,3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Trúc L, cho chị Nguyễn Trúc L ly hôn với anh Trần Văn H

- Về con chung: Giao cháu Trần Nguyễn Thủy Tiên, sinh ngày 09/01/2017 và Trần Nguyễn Bảo Thy, sinh ngày 30/10/2018 cho chị Nguyễn Trúc L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Anh Trần Văn H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Trần Nguyễn Thủy Tiên mỗi tháng 745.000 đồng và cháu Trần Nguyễn Bảo Thy mỗi tháng 745.000 đồng. Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét giải quyết do không có yêu cầu

- Về án phí: Chị Nguyễn Trúc L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chị L đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai số 0009606 ngày 20 tháng 10 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự huyện Phước Long được chuyển thu án phí. Anh Trần Văn H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 22/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về