Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 05/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 05 tháng 3 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 307/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXX-ST ngày 05 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thanh N, sinh năm 1980 (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Sơn Trường G, sinh năm 1980 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Tổ 6, khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và biên bản lấy lời khai nguyên đơn bà Trần Thị Thanh N trình bày: Tôi và ông Sơn Trường G tự nguyện chung sống và kết hôn với nhau từ năm 2003, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện V, tỉnh C. Sau khi kết hôn chúng tôi chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông G hay nhậu nhẹt say xỉn rồi về nhà mắng chửi vợ con, nhiều lần đánh bài mắc nợ người ta tôi phải đứng ra trả thay nên vợ chồng hay gây gổ, cãi vã lẫn nhau, tôi đã cố gắng chịu đựng và khuyên bảo ông G nhưng ông G không thay đổi nên vợ chồng càng cãi nhau nhiều hơn, gần đây thì mạnh ai người đó sống không quan tâm đến nhau nữa. Nay tôi nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết được nữa, cuộc sống chung căng thẳng ngột ngạt, tình cảm của tôi đối với ông G không còn, cuộc sống chung không còn hạnh phúc nên mong Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông G.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chúng tôi có hai con chung là cháu Sơn Thị Thúy V, sinh ngày 23/4/2004 và Sơn Thị Ngọc C, sinh ngày 15/02/2008. Hiện nay hai cháu đang sống với tôi. Tôi yêu cầu được nuôi cả hai con, không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chúng tôi sẽ tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Sơn Trường G vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không có ý kiến, không tham gia hòa giải, vi phạm quy định tại Điều 68, 72 của Bộ luật tố dụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chấp nhận cho bà N được ly hôn với ông G.

Về con chung: Giao cháu Sơn Thị Thúy V, sinh ngày 23/4/2004 và Sơn Thị Ngọc C, sinh ngày 15/02/2008 cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Bà N phải chịu 300.000 đồng theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Xác định đây là vụ án “Ly hôn” do bà Trần Thị Thanh N đứng đơn khởi kiện, bị đơn là ông Sơn Trường G cư trú tại khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh B. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 36 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Về việc vắng mặt đương sự: Bị đơn ông G vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án đã tiến hành tống đạt đầy đủ các văn bản hợp lệ trong suốt quá trình tố tụng nhưng ông G từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa. Bà N có đơn xin xét xử vắng mặt, do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Theo lời trình bày của nguyên đơn là bà N cho thấy, bà N và ông G tự nguyện chung sống với nhau và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện V, tỉnh C. Do đó, quan hệ hôn nhân này được xác định là hợp pháp.

Theo lời trình bày của bà N thì sau khi kết hôn bà N và ông G chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông G hay nhậu nhẹt say xỉn rồi về nhà mắng chửi vợ con, nhiều lần đánh bài mắc nợ người ta bà N phải đứng ra trả nợ thay nên vợ chồng hay gây gổ, cãi vã lẫn nhau, bà N đã cố gắng chịu đựng và khuyên bảo ông G nhưng ông G không thay đổi nên vợ chồng càng cãi nhau nhiều hơn, gần đây thì mạnh ai người đó sống không quan tâm đến nhau nữa. Nay bà N nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết được nữa, cuộc sống chung căng thẳng ngột ngạt, tình cảm của bà N đối với ông G không còn, cuộc sống chung không còn hạnh phúc nên mong Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông G.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông G vắng mặt nên không có lời trình bày. Tại Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân giữa bà N và ông G thì thể hiện “…về tình trạng hôn nhân giữa bà N và ông G như thế nào địa phương không rõ, do không có biểu hiện ra bên ngoài…”. Quá trình hòa giải Tòa án đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng bà N vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu được ly hôn với ông G, cho thấy tình trạng hôn nhân giữa bà N và ông G đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà N và ông G có hai con chung là cháu Sơn Thị Thúy V, sinh ngày 23/4/2004 và Sơn Thị Ngọc C, sinh ngày 15/02/2008, bà N yêu cầu được nuôi cả hai con, không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình giải quyết vụ án ông G vắng mặt, bà N có nguyện vọng được nuôi hai con chung, tại bản tự khai của mình cháu V và cháu C đã trên 07 tuổi và đều có nguyên vọng được ở với mẹ nên Hội đồng xét xử quyết định giao cháu V và cháu C cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Bà N không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của bà N, không trái quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N và ông G tự thỏa thuận nên không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

[3] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Bà N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 36; Điều 39; Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 51, 56, 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thanh N.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thanh N được ly hôn với ông Sơn Trường G.

Về con chung: Giao cháu Sơn Thị Thúy V, sinh ngày 23/4/2004 và Sơn Thị Ngọc C, sinh ngày 15/02/2008 cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

Ông G không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con nếu có căn cứ cho rằng mình hoặc bên kia không đáp ứng được quyền lợi cho con.

3. Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Bà N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0025090 ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 05/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về