Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 04/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 27/2021/TLST-HNGĐ ngày 25/01/2021 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Kim Thị T; Sinh năm 1984; Địa chỉ: Số A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Ông Dương Lưu L; Sinh năm 1984; Địa chỉ: Số G, ấp E, xã Ê, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện do bà Kim Thị T lập ngày 15/01/2021 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa thì nguyên đơn bà Kim Thị T trình bày như sau: Bà và ông Dương Lưu L sống chung với nhau trên cơ sở tự nguyện và đến năm 2015 thì mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ê, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng kết hôn ngày 31/01/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng thường hay cãi nhau với mức độ thường xuyên hơn cho nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, do đó vợ chồng đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay.

Trong thời gian chung sống bà và ông Dương Lưu L có 01 đứa con chung tên Dương Khánh T1, sinh ngày 02/9/2013, hiện nay con chung đang sống với bà; Về tài sản chung và nợ chung không có.

Nay bà Kim Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Dương Lưu L; Về con chung, bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Dương Khánh T1, sinh ngày 02/9/2013 đến khi trưởng thành và không yêu cầu ông L phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Dương Lưu L, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Dương Lưu L nhưng ông L không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà Kim Thị T và không đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa theo triệu tập.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện lập ngày 15/01/2021, bà Kim Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Dương Lưu L có nơi cư trú tại ấp E, xã Ê, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Trần Đề thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về xét xử vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa, bị đơn Dương Lưu L vắng mặt lần thứ hai không có lý do khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Kim Thị T:

[5] Về quan hệ hôn nhân: Bà Kim Thị T và ông Dương Lưu L tự nguyện kết hôn với nhau có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ê, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng kết hôn ngày 31/01/2015 nên quan hệ hôn nhân giữa bà Kim Thị T và ông Dương Lưu L là hợp pháp. Nhưng sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng ý kiến thường hay cãi nhau với mức độ thường xuyên hơn cho nên đến năm 2018 thì vợ chồng sống ly thân đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng cũng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng và bà Kim Thị T làm đơn khởi kiện để xin ly hôn tại Tòa án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức hòa giải để động viên vợ chồng bà T, ông L đoàn tụ với nhau, tuy nhiên phía ông L vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Như vậy, tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà Kim Thị T và ông Dương Lưu L đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc bà T xin ly hôn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về con chung: Trong thời gian sống chung bà T và ông Dương Lưu L có 01 đứa con chung tên Dương Khánh T1, sinh ngày 02/9/2013, hiện nay con chung đang sống với bà T và bà T yêu cầu tiếp tục được nuôi con đến trưởng thành. Xét yêu cầu của bà T là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên của Tâm và phù hợp với nguyện vọng của cháu T1. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Dương Khánh T1, sinh ngày 02/9/2013 cho bà Kim Thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên [7] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa hôm nay, bà Kim Thị T xác định hiện nay có điều kiện kinh tế ổn định và đủ khả năng để nuôi dưỡng các con nên không yêu cầu ông Dương Lưu L cấp dưỡng cho con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không buộc ông Dương Lưu L cấp dưỡng nuôi con chung

[8] Tài sản chung và nợ chung: Bà Kim Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, nên không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Kim Thị T chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng. Ông Dương Lưu L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với bị đơn Dương Lưu L vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án cho bị đơn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Bà Kim Thị T được ly hôn với ông Dương Lưu L.

- Về con chung:

Giao cho bà Kim Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà Kim Thị T và ông Dương Lưu L là cháu Dương Khánh T1, sinh ngày 02/9/2013 đến khi thành niên (hiện nay cháu T1 đang sống chung với bà T).

Ông Dương Lưu L có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu T1 mà không ai được cản trở. Ông Dương Lưu L không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T1 của bà Kim Thị T.

- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về nợ chung, nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Kim Thị T chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005879, ngày 25/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, bà Kim Thị T đã thực hiện xong. Ông Dương Lưu L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với bị đơn Dương Lưu L vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án cho bị đơn Lạc.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về