Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ T

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 320/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 254/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2021/QĐ-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

Ng uy ên đơn : Bà Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1992. (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: tổ 55, Khu vực 11, phường P, quận C, thành phố T.

Bị đơn: Ông Nhan Hòa T sinh năm 1984. (Vắng mặt).

Địa chỉ: đường số 11, khu dân cư H, khu vực L, phường T, quận C, thành phố T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/10/2020 và quá trình giải quyết, nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H trình bày: Tôi và ông Nhan Hòa T chung sống với nhau vào năm 2019 và tiến tới hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố T vào ngày 19/02/2020.

Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cải, mâu thuẫn về tiền bạc. Hiện tại bà đã ly thân với ông T hơn 06 tháng nay.

Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu:

+ Về quan hệ hôn nhân: Tôi yêu cầu ly hôn với ông Nhan Hòa T.

+ Về con chung: Không có con chung.

+ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nhan Hòa T: Được Tòa án triệu hợp lệ 02 lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Bị đơn tiếp tục vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn vắng mặt các lần hòa giải, xét xử nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông T đã thật sự nghiêm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Thanh H và ông Nhan Hòa T tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2019, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố T vào ngày 19/02/2020 nên xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, bà H và ông T phát sinh mâu thuẫn, bà H có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”. Bị đơn có địa chỉ tại quận C cho nên tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ctheo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn – Ông Nhan Hòa T đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa 02 lần nhưng đương sự đều vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án (vắng mặt nguyên đơn và bị đơn) theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Bà H và ông T chung sống năm 2019 và có đăng ký kết hôn năm 2020, sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Tại phiên tòa hôm nay ông T tiếp tục vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nên được xem là từ bỏ quyền tranh tụng của mình. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết vụ án dựa trên trình bày của bà H và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo bà H, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên cự cải, mâu thuẫn về tiền bạc cho nên bà xin ly hôn.

Xét trong quá trình giải quyết vụ án, bà H xác nhận bà và ông T chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng mặc dù vợ chồng có cố gắn hàn gắn tình cảm nhưng không cải thiện. Do đó, bà và ông T đã ly thân với nhau hơn 06 tháng nay.

Mặt khác, ông T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa bà H và ông T đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H theo quy định tại khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Nguyên đơn khai không có con chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 19, Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H về việc ly hôn với ông Nhan Hòa T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thanh H được ly hôn với ông Nhan Hòa T.

2. Về con chung: Nguyên đơn khai không có con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thanh H chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp, theo biên lai thu số 006437 ngày 26/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự, quận Cthành án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm phải chịu. Bà H đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về