Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 11/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 395/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXX-ST ngày 09 tháng 3 năm 2020; Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số: 02/2020/TB-TA ngày 17 tháng 3 năm 2020 và Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số: 04/2020/TB-TA ngày 06 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị Yến L, sinh năm: 1988.

Hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã N, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Thanh T, sinh năm: 1979.

Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 11 tháng 10 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trịnh Thị Yến L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Tơ quen biết, tìm hiểu và chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Chữ, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vào ngày 03-12-2010. Chị và anh Tơ chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên gây gỗ nhau. Chị và anh Tơ đã sống ly thân từ tháng 03-2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân hai anh chị cũng không có biện pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hiện tại cuộc sống gia đình chị không còn hạnh phúc nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mẫu thuẫn đã đến mức trầm trọng. Vì vậy, chị yêu cầu ly hôn với anh Trần Thanh T.

Về con chung: Chị và anh Tơ có 01 người con chung tên Trần Minh A, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2011 (nam). Hiện tại con chung đang sống chung với chị. Nay ly hôn chị yêu cầu nuôi con, không yêu cầu anh Tơ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị trình bày không có nên không đặt ra giải quyết. Đối với bị đơn - anh Trần Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị L chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Chữ, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vào ngày 03-12-2010. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên gây gỗ nhau, hai vợ chồng không tìm được tiếng nói chung.

Anh và chị L ly thân từ tháng 03-2019 cho đến nay. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống với nhau được nữa nên anh đồng ý ly hôn với chị Trịnh Thị Yến L.

Về con chung: Anh và chị L có 01 người con chung tên Trần Minh A, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2011 (nam). Hiện con chung đang sống chung với chị L tại Ấp A, xã N, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Nay ly hôn anh đồng ý giao con chung cho chị L nuôi, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Anh T đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và cung cấp lời khai của mình cho Tòa án nhưng không đến Tòa án tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử. Nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị Trịnh Thị Yến L và bị đơn anh Trần Thanh T có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị L, anh T là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị Yến L, cho chị L được ly hôn với anh Trần Thanh T. Về con chung: Áp dụng Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 giao 01 con chung tên Trần Minh A, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2011 (nam) cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị Trịnh Thị Yến L, anh Trần Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về nợ chung: Chị Trịnh Thị Yến L, anh Trần Thanh T trình bày không có nên không đặt ra giải quyết. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 chị Trịnh Thị Yến Lphải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trịnh Thị Yến L và anh Trần Thanh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị L, anh T theo quy định tại Khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh T trên cơ sở tự nguyện và đi đến hôn nhân từ năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Chữ, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vào ngày 03-12-2010 nên hôn nhân của chị L và anh T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo đơn khởi kiện chị L trình bày mâu thuẫn phát sinh là do trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên gây gỗ nhau, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, sống chung nhưng tính tình không hợp nhau. Tại biên bản lấy lời khai ngày 05-02-2020, anh T trình bày vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung, hiện tại anh và chị L đã sống ly thân từ tháng 03-2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân cả hai cũng không có biện pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay xét thấy tình trạng vợ chồng giữa chị L và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị L được ly hôn với anh T là phù hợp.

[3] Về con chung: Trịnh Thị Yến L và anh Trần Thanh T có 01 người con chung tên Trần Minh A, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2011 (nam). Nay ly hôn chị L yêu cầu được nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu A hiện đang sống chung với chị L. Mặt khác, cháu A đã trên 7 tuổi, qua làm việc cháu có nguyện vọng muốn được sống chung với chị L. Do vậy cần giao cháu A cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về việc cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn, chị L không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung do vậy nên ghi nhận.

Anh Trần Thanh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung: Chị Trịnh Thị Yến L và anh Trần Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị Trịnh Thị Yến L và anh Trần Thanh T trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Trịnh Thị Yến L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trịnh Thị Yến L với anh Trần Thanh T.

Chị Trịnh Thị Yến L được ly hôn với anh Trần Thanh T.

2. Về con chung: Giao 01 con chung tên Trần Minh A, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2011 (nam) cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Trần Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị L không yêu cầu.

Anh Trần Thanh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Trịnh Thị Yến L và anh Trần Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Trịnh Thị Yến L và anh Trần Thanh T trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Trịnh Thị Yến L phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0014029 ngày 18 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Chị L đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm Anh Trần Thanh T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị L, anh T có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:11/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về