Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 11/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17/8/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2020/TLST - HNGĐ ngày 02/6/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phùng Lở M;

Địa chỉ: Thôn Ng, xã A , huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Chảo Láo L.

Địa chỉ: Thôn Ng, xã A , huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 18/5/2020 và trong quá trình Tòa án giải quyết, nguyên đơn chị Phùng Lở M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Chảo Láo L sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2010, đến ngày 09/9/2013 thì đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Lào Cai. Từ ngày sống chung với nhau vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Lù không chịu làm ăn, ham chơi cờ bạc dẫn đến việc phá tán tài sản, chị đã khuyên bảo anh Lù nhiều lần nhưng anh Lù không khắc phục được, từ đó vợ chồng luôn cãi chửi nhau. Từ năm 2017 đến nay chị và anh Lù đã sống ly thân không quan tâm đến nhau. Cuối tháng 4/2020 chị đã viết đơn ly hôn, được sự khuyên giải của Tòa án chị đã rút đơn ly hôn mong muốn mâu thuẫn vợ chồng khắc phục được nhưng đến nay mâu thuẫn ngày một trầm trọng hơn. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Toà án giải quyết ly hôn với anh Chảo Láo L.

Về con: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị sinh được 01 cháu Chảo Thanh X, sinh ngày 16/7/2010. Từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu vẫn đang ở với anh Lù. Nay ly hôn chị nhường quyền nuôi con cho anh Lù, chị sẽ cấp dưỡng hàng tháng là 500.000 đồng /tháng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong thời gian chung sống vợ chồng không vay nợ ai và không cho ai vay.

Tại bản khai ngày 04/6/2020 và quá trình giải quyết bị đơn anh Chảo Láo L trình bày:

Anh nhất trí với lời trình bày của chị M về thời gian và điều kiện kết hôn. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc đến tháng 1 năm 2017 chị M tự bỏ nhà đi đâu không rõ, đến tháng 9/2017 thì về chữa bệnh, về được 20 ngày khỏi bệnh lại đi, sau đó anh được biết đi làm bên Trung Quốc, đến tết âm lịch năm 2018 thì chị Mẩy lại về và sau đó đi luôn từ đó cho đến nay. Khi chị M bỏ đi thì anh không biết nguyên nhân gì. Đến nay chị Mẩy có đơn ly hôn, nguyện vọng của anh mong muốn vợ chồng về chung sống với nhau, nhưng nếu chị Mẩy cương quyết ly hôn thì anh yêu cầu chị Mẩy phải thanh toán cho anh tiền cấp dưỡng nuôi con từ tháng 1/2017 cho đến tháng 5/2020 là 40 tháng, mỗi tháng 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng). Tổng là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng) thì anh mới đồng ý ly hôn, nếu không thanh toán thì anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị M sống với nhau sinh được 02 con, cháu lớn Chảo Thanh X, sinh ngày 16/7/2010, cháu thứ hai đã chết năm 2016. Hiện tại cháu X đang sống với anh. Nếu ly hôn anh xin nuôi cháu X và yêu cầu chị M cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng là 600.000 đồng cho đến khi cháu Xuân trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết, trong quá trình chung sống không vay nợ ai và không cho ai vay.

Đối với vụ án này Tòa án đã đưa ra hòa giải nhưng chị Mẩy và anh Lù không thỏa thuận được với nhau.

Tại phiên toà: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát có quan điểm: Thẩm phán, hội đồng xét xử giải quyết vụ án dân sự tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời, đúng pháp luật, thu thập chứng cứ đúng theo qui định pháp luật. Thư ký phiên toà và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, đề nghị giải quyết theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Phùng Lở M được ly hôn anh Lù. Về con giao cho anh L nuôi cháu Chảo Thanh Xn, chị Phùng Lở M phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tuyên án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Phùng Lở M khởi kiện anh Chảo Láo L về việc ly hôn, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, anh Lù có địa chỉ tại huyện Bát Xát, Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai thụ lý vụ án để giải quyết là phù hợp với khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay chị Phùng Lở M có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Chảo Láo L vắng mặt lần hai không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Phùng Lở M và anh Chảo Láo L.

[2] Chị Phùng Lở M và anh Chảo Láo L về ở với nhau từ năm 2010, đến ngày 09 tháng 9 năm 2013 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Quang Kim, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, theo giấy chứng nhận kết hôn số 27, trên cơ sở tự nguyện, như vậy hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ và công nhận.

[3] Tại đơn khởi kiện, các bản tự khai chị Phùng Lở M vẫn giữ nguyên quan điểm được ly hôn. Anh Chảo Láo L yêu cầu chị Mẩy phải thanh toán cho anh 24 triệu đồng tiền cấp dưỡng nuôi con từ tháng 1/2017 đến tháng 5/2020 thì anh mới đồng ý ly hôn.

Xét thấy trong quá trình chung sống thì chị Phùng Lở M và anh Chảo Láo L đã sống ly thân từ năm 2017, nay chị đi làm ăn xa nhà thỉnh thoảng mới về địa phương, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh Lù không tu chí làm ăn để xây dựng kinh tế gia đình. Tại biên bản lấy lời khai của bà Chảo Tả M, chị gái của anh Chảo Láo L, bà Chảo Pà Mẩy xác nhận anh chị có mâu thuẫn từ năm 2017 nhưng không biết nguyên nhân gì, tại biên bản hòa giải thì anh Lù xác nhận có mâu thuẫn nhưng chưa đến mức trầm trọng, anh đồng ý ly hôn khi chị Phùng Lở M thanh toán tiền nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, thực tế thì ngày 29/4/2020 chị đã viết đơn ly hôn và Tòa án đã thụ lý, trong quá trình giải quyết chị được Tòa án khuyên giải chị đã rút đơn, nhưng mâu thuẫn không khắc phục được, xét thấy anh L yêu cầu chị M phải thanh toán tiền nuôi con từ tháng 1/2017 cho đến tháng 5/2020 là 40 tháng, mỗi tháng 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng). Tổng là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng) thì anh mới đồng ý ly hôn, đối với yêu cầu này là mối quan hệ khác, việc anh yêu cầu chị Mẩy phải thanh toán mới đồng ý ly hôn là không có cơ sở, xét thấy mâu thuẫn của anh chị là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chấp nhận yêu cầu của chị Phùng Lở M, không chấp nhận yêu cầu của anh L, áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Phùng Lở M đựợc ly hôn anh Lù.

[4] Về con: Chị Phùng Lở M và anh Chảo Láo L chung sống với nhau sinh được 02 cháu, cháu lớn Chảo Thanh Xuân, sinh ngày 16/7/2010, cháu thứ hai đã chết năm 2016. Hiện tại cháu Xuân đang sống với anh Lù.

Xét thấy bản thân chị Mẩy không có nguyện vọng nuôi con, chị để anh Lù nuôi, anh Lù có nguyện vọng nuôi cháu Xuân, bản thân anh Lù là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, thu nhập bình quân đối với lao động tự do tại xã A Mú Sung là 100.000 (một trăm nghìn) đồng đến 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng/ngày, tại biên bản hỏi ý kiến của cháu Chảo Thanh X ngày 24/6/2020 thì cháu X muốn ở với bố, vì mẹ hay đi làm ăn xa nhà không có điều kiện chăm sóc, bản thân anh Lù cũng có nguyện vọng nuôi cháu X. Như vậy chấp nhận yêu cầu của chị M và anh L, giao cháu X cho anh L nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81; 82 và 83 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tại bản khai anh Lù yêu cầu chị Mẩy phải thanh toán tiền nuôi con từ tháng 1/2017 cho đến tháng 5/2020 là 40 tháng, mỗi tháng 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).Tổng là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng) thì anh mới đồng ý ly hôn, sau khi ly hôn thì anh yêu cầu chị Mẩy cấp dưỡng mỗi tháng 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) cho đến khi cháu Xuân đủ 18 tuổi.

Xét về yêu cầu của anh L: Trong thời gian sống ly thân bản thân chị Mẩy cũng đã gửi tiền về để nuôi con, tại bản khai của chị Chảo Pà M là chị gái của anh L xác nhận tết năm 2018 chị Phùng Lở M có gửi 5.000.000 (năm triệu) đồng để đưa cho anh Chảo Láo L nuôi con, số tiền đó đã đưa cho anh Lù 2.800.000 đồng (hai triệu tám trăm nghìn đồng), còn lại 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) mua ống dẫn nước vào ruộng của vợ chồng Chảo Láo L. Ngoài lần đó ra tháng 8/2018 chị Phùng Tả M còn gửi 2.000.000 đồng; tháng 01/2019 gửi 2.000.000 đồng; tháng 3/2020 gửi 1.000.000 đồng, số tiền này chị đã mua đồ cho cháu Chảo Thanh X, không báo cho L biết, vì nếu biết Chảo Láo L sẽ lấy hết và đi đánh bạc. Xét thấy trong quá trình sống ly thân chị Phùng Lở M có gửi tiền để nuôi cháu Chảo Thanh X, việc anh Chảo Láo L yêu cầu phải thanh toán tiền nuôi con mỗi tháng 600.000 đồng từ 1/2017 đến tháng 5/2020 là không có cơ sở, không chấp nhận. Nếu vợ chồng phải ly hôn anh Lù yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con 600.000 đồng /tháng, chị Mẩy không đồng ý chỉ chấp nhận cấp dưỡng 500.000 đồng /tháng; xét thấy anh Lù yêu cầu 600.000 đồng / tháng là phù hợp cần chấp nhận. Buộc chị Mẩy cấp dưỡng tiền nuôi con 600.000 đồng/ tháng cho đến khi cháu Chảo Thanh Xuân đủ 18 tuổi.

[6] Về tài sản: Chị Mẩy và anh Lù không yêu cầu giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không giải quyết.Trong thời gian chung sống anh chị không nợ ai, không cho ai vay.

[7] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, chị Phùng Lở M phải chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Xử cho chị Phùng Lở M được ly hôn anh Chảo Láo L.

2. Về con: Anh Chảo Láo L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Chảo Thanh Xuân, sinh ngày 16/7/2010 cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.

Chị Phùng Lở M phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) cho đến khi cháu Chảo Thanh X đủ 18 tuổi. Chị Phùng Lở M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Án phí: Chị Phùng Lở M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn) tiền án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ, tổng cộng là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0003409 ngày 02/6/2020. Chị Phùng Lở M còn phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:11/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về