Bản án 11/2020/DS-ST ngày 17/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay và hợp đồng mua bán

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BB, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 11/2020/DS-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 17 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BB, xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án thụ lý số 101/2019/TLST-DS ngày 30 tháng 8 năm 2019 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay” và “Hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXX-DSST ngày 16/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2020/QĐST-DS ngày 31/7/2020 giữa các bên đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim Th, sinh năm 1974 (có mặt)

Địa chỉ: thôn Thái Th, xã Hồng Th, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh Ph, sinh năm 1967(vắng mặt)

Hộ khẩu thường trú: Thôn An Tr, xã Bình A, huyện BB, tỉnh Bình Thuận

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và cũng như quá trình tố tụng nguyên đơn bà Lê Thị Kim Th trình bày: Gia đình bà có đăng ký kinh doanh thu mua thanh long nên ngày 04/01/2018 ông Nguyễn Thanh Ph(tên gọi khác là Phương) có vay của bà 150.000.000đ để đầu tư chăm sóc cây Thanh Long, thỏa thuận vay không lãi suất nhưng có trái ông Ph bán cho bà Lê Thị Kim Th. Đến ngày 21/4/2019 ông Ph vay thêm 10.000.000đ và tiếp tục 24/5/2018 ông Nguyễn Thanh Phong vay thêm 5.000.000 đồng để đầu tư cây Thanh long. Ngoài ra ông Ph còn mua phân thuốc của gia đình bà do con bà là anh T quản lý còn nợ số tiền phân thuốc 20.000. 000đ. Sau đó bà nhập chung cùng tiền mượn và tiền phân thuốc tổng cộng ông Nguyễn Thanh Ph còn nợ tiền vay và mua bán là 185.000.000đ. Hai lần vay ngày 04/01/2018 và ngày 21/4/2019 ông Ph có ký vào sổ vay của bà. Các lần vay thêm 5.000.000đ và mua phân thuốc tại cửa hàng của bà không cho ký tên vì tin tưởng nhau.

Sau khi vay tiền và mua phân thuốc để đầu tư cây thanh long ông Nguyễn Thanh Ph thu hoạch không bán trái cho bà và hiện nay không chăm sóc cây Thanh long mà giao đất và cây Thanh long cho người khác làm. Ông đi làm ăn nơi khác không trả nợ cho bà. Nhiều lần liên hệ qua điện thoại hứa hẹn nhưng không về thanh toán nên bà yêu cầu ông Nguyễn Thanh Ph phải trả tiền vay và mua bán cho bà 185.000.000đ(Một trăm tám mươi lăm triệu đồng) không tính lãi. Ngày 10/7/2020 bà Lê Thị Kim Th có lời khai xin rút một phần yêu cầu đối với khoản vay ngày 21/4/2019 số tiền vay 10.000.000đ và số tiền vay ngày 24/5/2018 là 5.000.000đ và số tiền phân thuốc 20.000.000đ. Vì số nợ này hiện ông Nguyễn Thanh Ph không có mặt về xác nhận nợ trực tiếp với bà nên sẽ khởi kiện vụ án khác.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh Ph đã được Tòa án tống đạt thủ tục thụ lý vụ án và thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như thông báo về thu thập chứng cứ của Tòa án hợp lệ nhưng ông Ph không có ý kiến gì về yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Thị Kim Th. Địa phương xác nhận ông Nguyễn Thanh Ph vẫn còn hộ khẩu tại địa phương nhưng thường xuyên không có mặt tại địa phương. Vì vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được và đưa ra xét xử.

*Tại phiên tòa, nguyên đơn yêu cầu ông Nguyễn Thanh Ph phải trả khoản nợ vay ngày 04/01/2018 số tiền 150.000.000đ(Một trăm năm mươi triệu đồng), không tính lãi. Rút một phần yêu cầu đối với khoản nợ vay ngày 21/4/2019 số tiền vay 10.000.000đ và khoản vay 5.000.000đ ngày 24/5/2018 và số tiền phân thuốc 20.000.000đ để giải quyết sau.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh Ph vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không đưa ra ý kiến về yêu cầu của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến về quan điểm giải vụ án như sau:

+ Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng về xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, xác định tư cách đương sự và thời hạn thủ tục cấp tống đạt.

+ Về tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự

+ Về chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật tại Điều 70, bị đơn không chấp hành, vi phạm Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35;điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 116, Điệu 385; Điều 463, Điều 465; Điều 466 và Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015 đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Kim Th buộc ông Nguyễn Thanh Ph phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà Lê Thị Kim Th số tiền đã vay ngày 04/01/2018 là 150.000.000đ(Một trăm năm mươi triệu đồng). Đình chỉ về yêu cầu của bà Lê Thị Kim Th đối với ông Nguyễn Thanh Ph về số tiền 35.000.000đ (Các khoản vay ngày 24/5/2018, 21/4/2019 và tiền phân thuốc)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Lê Thị Kim Th khởi kiện đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh Ph về “Hợp đồng vay” và “Hợp đồng mua bán”, theo kết quả xác minh ngày 22/10/2019 Công an xã Bình A cho biết ông Nguyễn Thanh Ph có hộ khẩu thường trú tại địa phương thôn An Tr, xã Bình A, huyện BB. Bị đơn ông Nguyễn Thanh Ph vào thời điểm vay tiền và mua phân thuốc của bà Lê Thị Kim Th và đến nay vẫn có hộ khẩu tại địa phương thôn An Tr, xã Bình A, huyện BB, tỉnh Bình Thuận nhưng sau khi vay tiền, mua phân thuốc không có mặt tại địa phương và không thông báo cho bà Lê Thị Kim Th biết nơi thay đổi địa chỉ là cố tình giấu địa chỉ. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện BB thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Ông Nguyễn Thanh Ph không đến Tòa án giải quyết vụ án nên vụ án không hòa giải được phải đưa ra xét xử.Tại phiên tòa hôm nay, ông Nguyễn Thanh Ph vắng mặt 2 lần nhưng Tòa án đã niêm yết thủ tục tố tụng và niêm yết chứng cứ do Tòa án thu thập được hợp lệ nhưng vẫn không có ý kiến gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử xử vắng mặt ông Nguyễn Thanh Ph là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Lê Thị Kim Th trình bày số tiền 150.000.000 đồng bà Th cho ông Ph vay ngày 04/01/2018 để đầu tư cây Thanh Long thỏa thuận bằng lời nói không tính lãi và phương thức trả nợ là bán trái Thanh long cho bà Th trừ nợ, khi vay có ông Nguyễn Thanh Ph ký và viết tên nhận nợ của bà với số nợ 150.000.000d nhưng hiện nay không trả lại cho bà theo thỏa thuận nên bà Th yêu cầu ông Nguyễn Thanh Ph phải trả nợ vay cho bà số tiền vay 150.000.000 đồng.Theo kết luận giám định số 336/KLGĐ-PC 09 ngày 07/5/2020 của Công an tỉnh Bình Thuận-Phòng giám định kỹ thuật hình sự kết luận chữ ký và chữ viết tại khoản nợ 150.000.000 đồng do bà Th cung cấp chứng cứ là do ông Nguyễn Thanh Ph ký và viết ra.Nhu vậy, có căn ông Nguyễn Thanh Ph có vay của bà Lê Thị Kim Th 150.000.000 đồng ngày 04/01/2018 vay không xác định thời hạn và không tính lãi. Do ông Ph vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận nên bà Lê Thị Kim Th có đơn khởi kiện về số nợ của ông Nguyễn Thanh Ph nhưng ông không có ý kiến phản bác gì về yêu cầu của bà Lê Thị Kim Th. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà Lê Thị Kim Th buộc ông Nguyễn Thanh Ph thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay gốc 150.000.000 đồng là có căn cứ phù hợp quy định tại Điều 275, Điều 463, Điều 466 và Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015.

[3] Về rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại phiên tòa bà Lê Thị Kim Th rút yêu cầu khởi kiện đối với nợ mua phân thuốc 20.000.000đ và hai khoản vay ngày 21/4/2019 tiền gốc 10.000.000đ và khoản vay ngày 24/5/2018 tiền gốc 5.000.000đ để khởi kiện sau. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu ông Nguyễn Thanh Ph trả nợ cho bà Lê Thị Kim Th tiền phân thuốc 20.000.000đ và nợ vay ngày 21/4/2019 tiền gốc 10.000.000d và nợ vay ngày 24/5/2018 tiền gốc 5.000.000đ theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của bà Lê Thị Kim Th được chấp nhận toàn bộ nên ông Nguyễn Thanh Ph phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: - Khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 5; khoản 1 Điều 147; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 275; Điều 463; Điều 466 và Điều 469 Bộ luật Dân sự năm 2015

- Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Xử: -Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim Th buộc ông Nguyễn Thanh Ph phải trả nợ vay cho bà Lê Thị Kim Th số tiền 150.000.000đ(Một trăm năm mươi triệu đồng).

- Đình chỉ xét xử về yêu cầu của bà Lê Thị Kim Th đối với ông Nguyễn Thanh Ph trả nợ phân thuốc 20.000.000đ; nợ vay ngày 21/4/2019 tiền gốc 10.000. 000d và nợ vay ngày 24/5/2018 tiền gốc 5.000.000đ.Người khởi kiện bà Lê Thị Kim Th có quyền khởi kiện lại theo quy định pháp luật.

Về án phí: Ông Nguyễn Thanh Ph phải nộp 7.500.000đ(Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả bà Lê Thị Kim Th tiền tạm ứng án phí 4.625.000đ theo biên lai số 0029251 ngày 27/8/20219 của Chi cục thi hành án dân sự huyện BB.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự , người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự ; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/DS-ST ngày 17/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay và hợp đồng mua bán

Số hiệu:11/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về