Bản án 11/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 11/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại hội trường Ủy ban nhân dân xã H, Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn C, sinh ngày 18/02/1982; nơi sinh: Thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1942; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1983; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2018 đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/12/2018, Phạm Văn C đến khu vực đền V, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc gặp và mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy đá và 09 viên nén ma túy tổng hợp với giá 2.000.000đồng mang về nhà chia làm nhiều gói nhỏ mục đích để sử dụng cho bản thân và có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 18/12/2018, C đang ở nhà thì có Bùi Văn T ở thị trấn Y đến hỏi mua 300.000đồng ma túy đá. C đồng ý và lấy từ trong người ra 01 đoạn ống nhựa loại ống hút nước giải khát hàn kín hai đầu bên trong có chứa các hạt ma túy dạng đá đưa cho T. T nhận gói ma túy và đưa cho C 300.000đồng. Khi C đang cất tiền vào túi áo thì bị Công an huyện Yên Lạc bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- Thu tại túi quần trước bên phải của T 01 ống nhựa màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá được niêm phong ký hiệu A1 (T khai gói ma túy vừa mua của C);

- Thu tại túi áo khoác của C 300.000đồng (C khai là tiền vừa bán ma túy cho T); thu tại sàn phòng ngủ tầng 2 nhà C 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể dạng đá, 06 ống nhựa màu vàng, 09 ống nhựa màu hồng và 12 ống nhựa màu trắng bên trong đều chứa các hạt tinh thể dạng đá được niêm phong ký hiệu A2; Thu 01 túi ni lon bên trong chứa 09 viên nén màu hồng đỏ được niêm phong ký hiệu A3;

Khám xét nơi ở của C: Thu 11 ống nhựa, 02 bật lửa ga, 01 cân điện tử màu xanh nhãn hiệu Mild Seren, 01 chai nhựa nắp gắn 01 ống hút nhựa màu cam và 01 ống hút nhựa được nối bằng 04 ống nhựa nhỏ.

Tại kết luận giám định số 1927/KLGĐ ngày 22/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

“ 1.Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine, Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ”. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,0932g (Không phảy không chín ba hai gam, không kể bao bì).

“ 2.Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine, Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ”. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 4,4758g (bốn phảy bốn bảy năm tám gam, không kể bao bì).

“ 3. 09 (chín)viên nén màu hồng đỏ, trên mặt mỗi viên nén đều in chìm ký tự “WY”của mẫu ký hiệu A3 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Metham- phetamine, Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ”. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,8646g (không phảy tám sáu bốn sáu gam, không kể bao bì).

Đối với Bùi Văn T là người mua ma túy của C, Công an huyện Yên Lạc xác minh tại thôn Đ, thị trấn Y, huyện Yên Lạc không có ai có tên, tuổi như T khai. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho C, C khai mua ở khu vực đền V, xã T, do mua lần đầu nên C không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Công an huyện Yên Lạc không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 21/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc truy tố Phạm Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 7 năm 06 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 300.000đồng, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 11 ống hút nhựa, 02 bật lửa ga, 01 chai nhựa phần nắp gắn 01 ống hút, 01 ống hút nhựa được nối bằng 04 đoạn ống nhựa, 01 cân điện tử màu xanh.

Tại phiên tòa bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 17 giờ ngày 18/12/2018, tại nhà ở của mình ở khu 4 thôn B, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, Phạm Văn C đang bán trái phép 01 gói ma tuý đá loại Methamphetamine có khối lượng 0,0932gam cho Bùi Văn T với giá 300.000đồng thì bị bắt quả tang. Cơ quan điều tra thu giữ 01 túi ni lon, 27 đoạn ống hút nhựa bên trong chứa tinh thể dạng đá, 09 viên nén màu đỏ, theo kết luận giám định đều là ma túy đá loại Metham- phetamine có tổng khối lượng 5,3404 gam. Hành vi bán trái phép chất ma túy của Phạm Văn C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng của vụ án, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp lời khai của người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Văn C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều luật quy định: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

...i, Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước và xâm phạm trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Như chúng ta đã biết ma tuý đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Trong khi cả xã hội đang đấu tranh để đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống thì bị cáo lại làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng. Bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy cho bản thân và xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy cần phải có hình phạt thật nghiêm khắc mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét nhân thân bị cáo là người có sức khoẻ, phát triển bình thường về thể chất và tinh thần nhưng không chịu làm ăn chân chính, ăn chơi đua đòi nên nghiện ma túy. Lẽ ra phải phạt bị cáo mức án cao, song xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, ở Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thực sự tỏ ra ăn năn hối cải đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều

51 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo. Có như vậy mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[2] Về hình phạt bổ sung: “Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000 đồng…”. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[ 3] Về xử lý vật chứng: Số tiền 300.000đồng là tiền do bán ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Mẫu vật sau giám định 01 bao gói niêm phong “MẪU TRẢ”; 11 ống hút nhựa; 02 bật lửa ga; 01 chai nhựa phần nắp gắn 01 ống hút bằng nhựa màu cam; 01 ống hút nhựa được nối bằng 04 đoạn ống nhựa nhỏ; 01 chiếc cân điện tử màu xanh không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho C, C khai mua ở khu vực đền V, xã T, do mua lần đầu nên C không biết tên, tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở để xác minh làm rõ. Cơ quan điều tra không khởi tố, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Bùi Văn T là người mua ma túy của C, Cơ quan điều tra xác minh tại thôn Đ, thị trấn Y không có ai có tên, tuổi như T khai. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp pháp luật.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn C 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/12/2018.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000đồng.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 bao gói niêm phong “MẪU TRẢ”; 11 ống hút bằng nhựa; 02 bật lửa ga; 01 chai nhựa phần nắp gắn 01 ống hút bằng nhựa màu cam; 01 ống hút nhựa được nối bằng 04 đoạn ống nhựa nhỏ; 01 chiếc cân điện tử màu xanh nhãn hiệu MildSeren (Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 4 năm 2019 giữa Công an huyện Yên Lạc và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Lạc).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Phạm Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về