Bản án 11/2019/HSST ngày 25/01/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 11/2019/HSST NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Việt Trì xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2019/HSST, ngày 25 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tuấn H; - Tên gọi khác: Không có;

- Sinh ngày 07 tháng 12 năm 1979;

- Nơi đăng kí hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 58, khu 14, phường M, thành phố V, tỉnh P.

- Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

- Trình độ học vấn: Lớp 12/12 - Nghề nghiệp: Lao động tự do.

- Bố đẻ: Nguyễn Văn T- sinh năm 1954;

- Mẹ đẻ: Nguyễn Thị D- sinh năm 1957;

- Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất;

- Vợ: Dương Thị Hồng L, sinh năm 1979;

- Con: Có 02 con, con thứ nhất sinh năm 2011, con thứ hai sinh năm 2012;

- Tiền sự, tiền án: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/9/2018 đến ngày 06/10/2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cứ trú”. Hiện bị cáo đang tại ngoại ở tổ 58, khu 14, phường M, thành phố V, tỉnh P. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 30/9/2018, Nguyễn Tuấn H đang ở tại tổ 58, khu 14, phường M, thành phố V, tỉnh P thì nhận được điện thoại của Dương Công T1, sinh năm 1970, hộ khẩu thường trú: khu 14, phường M, thành phố V, tỉnh P, có số điện thoại 0915.760.844 gọi vào số điện thoại của H là 0947.280.065, T1 hỏi mua ma túy Heroine với giá trị 200.000 đồng, H đồng ý hẹn gặp T1 ở tổ 58, khu 14, phường M, thành phố V.

Hi 15 giờ ngày 30/9/2018 tại tổ 58, khu 14, phường M, thành phố V, tỉnh P, khi H đang giao ma túy và nhận tiền của T thì bị Tổ công tác của đội Phòng ngừa đấu tranh tội phạm đường thủy thuộc Phòng Cảnh sát giao thông (Phòng PC 08)- Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của Dương Công T1: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Auss màu vàng đã cũ, kèm sim số 0915.760.844; 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng, là gói ma túy Hêrôin T1 mua của H mục đích để sử dụng (niêm phong bì số 1); thu giữ của H: 05 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong 05 gói có chứa chất bột cục màu trắng, là ma túy Hêrôin của H, mục đích để sử dụng cho bản thân (niêm phong bì số 02), tiền Việt Nam 800.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ, số imei: 355506/05/237992/9 kèm sim số 0947.280.065 trong máy, cùng ngày Phòng PC 08- Công an tỉnh Phú Thọ chuyển đối tượng và vật chứng tới Công an thành phố Việt Trì giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 01/10/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Việt Trì tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Tuấn H, quá trình khám xét thu giữ 01 lưỡi dao lam hiệu Croma đã cũ, 30 mảnh giấy kích thước 3x3cm, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Việt Trì tiến hành trưng cầu giám định số chất bột cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Tuấn H và Dương Công T1.

Tại Bản kết luận giám định số 990/KLGĐ ngày 03/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

Mu chất bột cục màu trắng (bì niêm phong số 01) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,016 gam, loại Heroine. Hoàn lại 0,006 gam chất bột cục màu trắng là đối tượng sau giám định.

Mu chất bột cục màu trắng (bì niêm phong số 02) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,205 gam, loại Heroine. Hoàn lại 0,142 gam chất bột cục màu trắng là đối tượng sau giám định.

Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, số thứ tự 09 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Về nguồn gốc ma túy Nguyễn Tuấn H bán cho Dương Công T1 và tàng trữ trong người để sử dụng, H khai nhận: Khoảng hơn 12 giờ ngày 30/9/2018, H đi xe khách từ thành phố V xuống khu vực Đ, huyện T, tỉnh V1 để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây H gặp và mua được của một người nam giới khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy Heroine có đặc điểm gói bên ngoài bằng nilon màu trắng bên trong có 01 gói giấy hai mặt màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng với giá 500.000 đồng, sau khi mua được ma túy, H cầm gói ma túy về nhà chia thành 06 gói nhỏ, gói bên ngoài bằng giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, H bán cho T1 01 gói, còn 05 gói mục đích để sử dụng thì bị thu giữ khi H bị bắt quả tang.

Đi với người bán ma tuý cho H, do H không biết họ tên, địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định được.

Đi với Dương Công T1 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bản thân Dương Công T1 không có tiền án về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Do đó hành vi vi phạm của Dương Công T1 chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 30/10/2018, Công an thành phố Việt Trì đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Dương Công T1 theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, mức phạt 1.000.000 đồng và trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Asus màu vàng đã cũ, kèm sim số 0915.760.844 cho T.

Về điều kiện kinh tế: Qua điều tra xác định, ngoài số tài sản bị thu giữ, Nguyễn Tuấn H không có tài sản, thu nhập, ngoài đồ dùng sinh hoạt cá nhân thiết yếu.

Tại bản cáo trạng số: 11/CT-VKSVT ngày 27 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn H về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và tội " Mua bán trái phép chất ma tuý", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn H từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mốt) tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Từ 30 (ba mươi) đến 33 (ba mươi ba) tháng tù về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 30/9/2018 đến ngày 06/10/2018.

Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh và tại phiên tòa hôm nay xác định bị cáo chỉ có 600.000 đồng, ngoài ra bị cáo không có tài sản gì khác nên cần tịch thu số tài sản trên của bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiªu huû gồm: 02 bì niêm phong có số: 990/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có:

Bì số 01: 0,006 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định. Bì số 02; 0,142 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định.

- Tịch thu tiêu hủy sim số điện thoại 0947.280.065 kèm theo chiếc điện thoại đã thu giữ của bị cáo H và 01 lưỡi dao lam hiệu Croma đã cũ, 30 mảnh giấy kích thước 3x3cm, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng đã thu giữ của bị cáo H là số tiền do bán ma túy mà có và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ, số imei: 355506/05/237992/9 của bị cáo H là phương tiện liên lạc để mua bán ma túy.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo:

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Tuấn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều thống nhất, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 20 phút, ngày 30/9/2018, tại tổ 58, khu 14, phường M, thành phố V, tỉnh P, Nguyễn Tuấn H đã liên lạc bằng điện thoại để bán trái phép cho Dương Công T1 0,016 gam Heroine với giá 200.000 đồng, khi H đang đưa ma túy cho T1 và nhận tiền thì bị đội Phòng ngừa đấu tranh tội phạm đường thủy thuộc Phòng Cảnh sát giao thông (Phòng PC08)- Công an tỉnh Phú Thọ bắt quả tang. Ngoài ra Nguyễn Tuấn H còn tàng trữ 0,205 gam Heroine mục đích để sử dụng. Vì vậy, Nguyễn Tuấn H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi bán trái phép chất ma túy cho Dương Công T1 với khối lượng ma túy là 0,016 gam Heroine và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân với khối lượng là 0,205 gam Heroine.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Tuấn H đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và “Tội mua bán trái phép chất ma tuý" theo qui định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine,....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”.

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm suy thoái nòi giống con người, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện nên bị cáo phải chịu hậu quả về hành vi phạm tội của mình.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo: Bị cáo không có tiền án tiền sự, nhân thân tốt. Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Gia đình bị cáo hiện nay đang được hưởng chế độ thờ cúng liệt sĩ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt tù cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000đồng … hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, nhưng qua xác minh và tại phiên tòa hôm nay xác định bị cáo chỉ có 600.000 đồng, ngoài ra bị cáo không có tài sản gì khác nên cần tịch thu số tài sản trên của bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Ma túy là vât nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong có số: 990/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có:

Bì số 01: 0,006 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định.

Bì số 02: 0,142 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định.

- Tịch thu tiêu hủy sim số điện thoại 0947.280.065 đã thu giữ trong chiếc điện thoại của bị cáo H và 01 lưỡi dao lam hiệu Croma đã cũ, 30 mảnh giấy kích thước 3x3cm, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng.

- Đối với số tiền 200.000 đồng đã thu giữ của bị cáo H là tiền do bán ma túy mà có và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ, số imei: 355506/05/237992/9 của bị cáo H là phương tiện liên lạc để mua bán ma túy. Cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/01/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt Trì và Chi cục Thi hành án thành phố Việt Trì) [7] Về nguồn gốc số Ma túy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H khai nhận mua của một người nam giới, do bị cáo H không biết tên tuổi và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định được người đã mua ma túy cho H là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tuấn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn H 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành 45 (bốn mươi lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 30/9/2018 đến ngày 06/10/2018.

Về hình phạt bổ sung: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo H.

(theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/01/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt Trì và Chi cục Thi hành án thành phố Việt Trì) Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiªu huû gồm: 02 bì niêm phong có số 990/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có:

Bì số 01: 0,006 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định. Bì số 02; 0,142 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định.

- Tịch thu tiêu hủy sim số điện thoại 0947.280.065 đã thu giữ trong chiếc điện thoại của bị cáo H và 01 lưỡi dao lam hiệu Croma đã cũ, 30 mảnh giấy kích thước 3x3cm, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng.

Tch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ, số imei: 355506/05/237992/9 đã thu giữ của bị cáo H.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/01/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt Trì và Chi cục Thi hành án thành phố Việt Trì)

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Tuấn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Tuấn H có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HSST ngày 25/01/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:11/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về