Bản án 11/2019/HS-ST ngày 06/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 11/2019/HS-ST NGÀY 06/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 06 tháng 3 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Thanh C; tên gọi khác (Tý Em), sinh năm 1987, tại Đồng Nai; Nơi ĐKHKTT: Ấp T, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Con ông Phạm Văn Trí (chết) và bà Võ Thị Lan (chết); Gia đình bị cáo có 02 anh chị em, bị cáo là con út; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 20/7/2006 bị TAND huyện Vĩnh Cửu xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 31/7/2007 bị TAND huyện Vĩnh Cửu xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 12/01/2009 bị TAND huyện Vĩnh Cửu xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 05/7/2011 bị TAND huyện Vĩnh Cửu xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 24/9/2015 bị TNAD huyện Vĩnh Cửu xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo bị bắt ngày 17/11/2018. (có mặt)

* Bị hại: Anh Lê Tấn D, sinh năm 1981; (vắng mặt)

Địa chỉ: Khu 3, ấp B, xã B, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 40 phút ngày 16/11/2018, Phạm Thanh C ngụ tại Ấp T, xã T, huyện V đi lang thang đến khu vực ấp B, xã B, huyện Vĩnh Cửu. Khi đến nhà anh Lê Tấn D thuộc khu 3, ấp B, xã B thấy nhà mở cửa trước sân có dựng hai xe mô tô, trong đó có xe mô tô biển số 60K5-1282 có để chìa khóa sẵn trên xe nên nảy sinh ý định trộm cắp. Phạm Thanh C lén lút đi vào sân dắt xe mô tô ra ngoài và nổ máy chạy về hướng ấp T, xã B. Phát hiện bị mất xe nên anh D dùng xe máy đuổi theo Phạm Thanh C, anh D đuổi kịp dùng chân đạp xe làm C bị ngã xuống đất bỏ lại xe máy chạy khỏi hiện trường. Đến khoảng 22 giờ 15 phút ngày 16/11/2018, Phạm Thanh C ra Công an xã B đầu thú khai báo sự việc.

Tại kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu xác định xe mô tô biển số 60K5-1282 hiệu DONA có giá trị 2.800.000 đồng.

Quá trình điều tra, xét xử bị cáo, bị hại không có ý kiến gì về kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu.

Tang vật vụ án: Xe mô tô biển số 60K5-1282 hiệu DONA Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu đã trả lại cho chủ sở hữu anh Lê Tấn D.

Bản cáo trạng số: 09/CT-VKSVC ngày 31 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Phạm Thanh C về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g (tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội. Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, lời khai của bị cáo, bị hại tại hồ sơ đã có đủ cơ sở kết luận:

Phạm Thanh C là đối tượng có nhiều tiền án, không có nghề nghiệp, sống lang thang thường xuyên trộm cắp trên địa bàn huyện V. Vào tối ngày 16/11/2018, lợi dụng sự sơ hở của anh Lê Tấn D, bị cáo đã lén lút vào nhà lấy trộm xe mô tô hiệu DONA biển số 60K5-1282 của gia đình anh D đang để trước sân nhà có để sẵn chìa khóa trên xe. Bị cáo lấy xe, nổ máy chạy về hướng ấp T, xã B, huyện V thì bị phát hiện, truy đuổi và bỏ lại tang vật tại hiện trường.

Quá trình điều tra, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu xác định xe mô tô bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 2.800.000 đồng.

Do bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nên hành vi bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Nhân thân bị cáo đã nhiều tiền án, đã tái phạm nhưng chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm g (tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Từ những nhận định trên, có đủ căn cứ khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ nên cần phải có một mức hình phạt thật nghiêm minh để cải tạo, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[3] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại anh Lê Tấn D đã nhận lại tài sản không có yêu cầu về bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số 60K5-1282 Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 136, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Xử phạt Phạm Thanh C 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2018.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Thanh C phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại Lê Tấn D vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ, để Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HS-ST ngày 06/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về