Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về chị X xin ly hôn anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ CHỊ X XIN LY HÔN ANH T

Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2019/TLST-HNGĐ ngày 08/4/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Hậu Giang.

Đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn là chị Nguyễn Thị X trình bày tại phiên tòa: Tôi kết hôn với anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1979, địa chỉ: Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, cần Thơ ( cũ, nay là Hậu Giang) ngày 12/02/2001 trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn ở UBND xã Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Cần Thơ. Sau khi cưới vợ chồng chung sống cùng gia đình nhà anh T ở Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, cần Thơ khoảng 01 năm. Sau đó hai vợ chồng lên thành phố Hồ Chí Minh để làm ăn. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng cảm thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không thể chung sống với nhau được nữa. Tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, mục đính hôn nhân không đạt được nên năm 2017 tôi đã mang con thứ hai về quê tôi ở Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh ở từ đó cho đến nay. Từ đó vợ chồng ly thân cắt đứt mọi quan hệ, hai bên không có biện pháp nào để đoàn tụ. Nay tôi xác định vợ chồng không còn tình cảm nên vợ chồng đã thỏa thuận nhất trí ly hôn, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ giải quyết ly hôn cho chúng tôi, để tạo điều kiện cho cả hai bên xây dựng cuộc sống mới.

Về con chung: Vợ chồng tôi có 02 con là:

1. Nguyễn Hoàng Giang, sinh năm 1998 hiện ở với bố là anh T tại Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Hậu Giang.

2. Nguyễn Khánh Hà, sinh năm 2012 hiện ở với tôi tại Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh.

Hiện cháu Giang đã đủ 18 tuổi và đã đi làm nên không yêu cầu Tòa án can thiệp giải quyết. Còn cháu Hà hiện đang ở với tôi. Ly hôn tôi nhất trí giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, giao cháu Hà cho tôi trực tiếp nuôi, về cấp dưỡng nuôi con để vợ chồng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công sức: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra tôi không yêu cầu gì khác.

Theo bị đơn là anh Nguyễn Văn T trình bày trong bản tự khai:

Tôi đã nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án. Vợ chồng chứng tôi đã thỏa thuận thống nhất đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh giải quyết ly hôn cho chứng tôi. Tôi kết hôn với chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1982, địa chỉ: Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh ngày 12/02/2001 trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn ở UBND xã Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, cần Thơ ( cũ, nay là Hậu Giang). Sau khi cưới vợ chồng chung sống cùng gia đình nhà tôi ở Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Cần Thơ khoảng 01 năm. Sau đó hai vợ chồng lên thành phố Hồ Chí Minh để làm ăn. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng cảm thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không thể chung sống với nhau được nữa. Tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, mục đính hôn nhân không đạt được nên năm 2017 vợ tôi đã mang con thứ hai về quê vợ tôi ở Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh ở từ đó cho đến nay. Từ đó vợ chồng ly thân cắt đứt mọi quan hệ, hai bên không có biện pháp nào để đoàn tụ. Nay tôi xác định vợ chồng không còn tình cảm nên vợ chồng đã thỏa thuận nhất trí ly hôn, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ giải quyết ly hôn cho chúng tôi, để tạo điều kiện cho cả hai bên xây dựng cuộc sống mới.

Về con chung: Vợ chồng tôi có 02 con là:

1. Nguyễn Hoàng Giang, sinh năm 1998 hiện ở với tôi tại Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Hậu Giang.

2. Nguyễn Khánh Hà, sinh năm 2012 hiện ở với mẹ tại Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh.

Hiện cháu Giang đã đủ 18 tuổi và đã đi làm nên không yêu cầu Tòa án can thiệp giải quyết. Còn cháu Hà hiện đang ở với mẹ. Ly hôn tôi nhất trí giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, giao cháu Hà cho chị X trực tiếp nuôi, về cấp dưỡng nuôi con để vợ chồng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công sức: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, do điều kiện kinh tế tôi khó khăn, lại ở xa, nên không thể đến Tòa án nhân dân huyện Quế Võ để giải quyết vụ án được. Nên tôi đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt tôi.

Ngoài ra tôi không yêu cầu gì khác.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xem xét nguyện vọng của con anh T chị X, qua bản tự khai của cháu Nguyễn Khánh Hà, sinh ngày 17/01/2012 có sự chứng kiến của chị X. Cháu Hà trình bày nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu có nguyện vọng vẫn được ở với mẹ cháu. Ngoài ra cháu không yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Tất cả đều tuân thủ đúng đủ theo quy định của pháp luật. Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 55, 81, 82, 83 - Luật hôn nhân và gia đình; Điểm b, Khoản 1, Điều 39 - Bộ luật tố tụng dân sự: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn T. Về con chung: Giao con cho chị X trực tiếp nuôi, vấn đề cấp dưỡng nuôi con anh T, chị X không yêu cầu nên không đề cập giải quyết. Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau ly hôn mà không ai được cản trở. Chị X phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn T kết hôn ngày 12/02/2001 trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn ở UBND xã Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Cần Thơ ( cũ, nay là Hậu Giang). Sau khi cưới vợ chồng chung sống cùng gia đình nhà anh T ở Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Cần Thơ khoảng 01 năm. Sau đó hai vợ chồng lên thành phố Hồ Chí Minh để làm ăn. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên cãi nhau. Tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, mục đính hôn nhân không đạt được. Vợ chồng thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không thể chung sống với nhau được nữa. Nên năm 2017 chị X đã mang con thứ hai về quê ở Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh ở từ đó cho đến nay. Từ đó vợ chồng ly thân cắt đứt mọi quan hệ, hai bên không có biện pháp nào để đoàn tụ. Nay vợ chồng xác định không còn tình cảm nên đã thỏa thuận nhất trí ly hôn, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ giải quyết ly hôn, để tạo điều kiện cho cả hai bên xây dựng cuộc sống mới.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con là:

1. Nguyễn Hoàng Giang, sinh năm 1998 hiện ở với anh T tại Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Hậu Giang.

2. Nguyễn Khánh Hà, sinh năm 2012 hiện ở với chị X tại Bất Phí, Nhân Hòa, Quế Võ, Bắc Ninh.

Hiện cháu Giang đã đủ 18 tuổi và đã đi làm nên không yêu cầu Tòa án can thiệp giải quyết. Còn cháu Hà hiện đang ở với mẹ. Ly hôn vợ chồng nhất trí giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, giao cháu Hà cho chị X trực tiếp nuôi, về cấp dưỡng nuôi con vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công sức: Vợ chồng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét sự thỏa thuận của vợ chồng về việc ly hôn và giao con chung sau lý hôn là tự nguyện, phù hợp pháp luật và thực tế nên cần chấp nhận.

Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau ly hôn mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị X phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 55, 81, 82, 83 - Luật hôn nhân và gia đình. Điểm b, Khoản 1, Điều 39; Điều 235, 147 - Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Nguyễn Khánh Hà, sinh ngày 17/01/2012 cho chị X trực tiếp nuôi, về cấp dưỡng nuôi con anh T và chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau ly hôn mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị X phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị X đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai số: 02914 ngày 08/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Chị X có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về chị X xin ly hôn anh T

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về