Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 25/03/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 349/2018/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2019/QĐXX-ST ngày 26/2/2019, Quyết định hoãn phiên tòa ngày 14/3/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Chị Trịnh Thị P, sinh năm 1986 ( Có mặt).

ĐKHKTT: Thôn N, xã Nam P, huyện C, TP. Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn V, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1982 (Vắng mặt). ĐKHKTT và cư trú tại: Thôn N, xã N, huyện C, TP. Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Trịnh Thị P trình bày:

Chị và anh Nguyễn Tiến T tự do tìm hiểu tổ chức cưới có đăng ký kết hôn tại UBND xã N ngày 15/10/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống tại nhà anh T, vợ chồng sống hạnh phúc thời gian 5 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh T không chịu khó làm ăn, chời bời, đua đòi, đánh bạc thua nợ về bắt chị trả nợ, vợ chồng thường xuyên cãi nhau anh T đánh chị nhiều lần, ngoài ra trong cuộc sống anh T không quan tâm, không có trách nhiệm với chị và hai con về tài chính cũng như tình cảm. Từ tháng 9/2018 chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, vợ chồng sống ly thân, trong thời gian ly thân vợ chồng không quan tâm đến nhau, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn xin được ly hôn anh T để ổn định cuộc sống.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 2 con chung là Nguyễn Bảo N sinh ngày 22/10/2013 và Nguyễn Thị Ngọc T sinh ngày 15/8/2016 hiện tại hai con đang ở cùng chị P. Chị P đang đi làm công nhân may thu nhập 6.000.000đ đến 7.000.000đ/ 1 tháng đủ điều kiện nuôi con, ly hôn chị xin nuôi 2 con chung không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Tiến T đã được Tòa án triệu tập đến Tòa để ghi lời trình bày ý kiến về việc chị P xin ly hôn anh nhưng anh T nhận giấy triệu tập, thông báo nhưng không đến Tòa trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án và các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án chấp hành đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật, bị đơn Không chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật về quyền nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung: Căn cứ Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệphí Tòa án đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Trịnh Thị P ly hôn Nguyễn Tiến T. Giao cho cho chị P chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 2 con chung chung đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định thay đổi khác. Anh T không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung .

Về án phí: Chị P phải chịu phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của nguyên đơn, báo cáo của xã N, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1].Về tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn có mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng vắng mặt vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2].Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị P và anh Nguyễn Tiến T tự nguyện tìm hiểu tổ chức cưới có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nam N ngày 15/10/2008 là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai nguyên đơn, báo cáo của xã Nam phương Tiến và tại phiên tòa nhận thấy: Sau khi kết hôn vợ chồng chị Phương và anh T chung sống tại nhà đất gia đinh anh T; vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2013 thì mâu thuẫn nguyên nhân do anh T không chịu khó lao động dẫn đến nhiều lần vợ chồng xô sát, từ tháng 9/2018 vợ chồng sống ly thân không quan tâm không có trách nhiệm với nhau. Tại phiên tòa chị P giữ nguyên quan điểm ly hôn. Tòa án đã triệu tập anh T đến Tòa để giải quyết nhưng anh T không chấp hành là không có thiện chí hòa giải. Vì vậy chị P xin ly hôn anh T là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên chấp nhận cho chị P ly hôn anh T để hai bên ổn định cuộc sống.

[3]. Về quan hệ con chung: Vợ chồng chị Phương và anh T có 2 con chung Nguyễn Bảo N sinh ngày 22/10/2013 và Nguyễn Thị Ngọc T sinh ngày 15/8/2016 hiện tại hai con đang ở cùng chị P. Ly hôn chị P có nguyện vọng nuôi 2 con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện tại chị P đang đi làm công nhân thu nhập 6.000.000đ đến 7.000.000đ/ 1 tháng đủ điều kiện nuôi con, ly hôn giao cho chị P xin nuôi 2 con chung, đảm bảo quyền lợi của con theo khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân & gia đình năm 2014.

Về mức cấp dưỡng nuôi con chị P không yêu cầu nên Tòa không giải quyết, vì vậy tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi có quyết định thay đổi khác. Anh T được đi lại thăm chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản, theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[4].Về tài sản chung, công sức, công nợ chung: Chị P không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Tòa không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Các Điều 28,35,39,147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 5, Điều 7 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

2.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Trịnh Thị P và anh Nguyễn Tiến T ly hôn.

3. Về con chung: Giao cho chị Trịnh Thị P tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục 2 con chung là Nguyễn Bảo N sinh ngày 22/10/2013 và Nguyễn Thị Ngọc T sinh ngày 15/8/2016 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định thay đổi khác. Anh Nguyễn Tiến T có quyền nghĩa vụ thăm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được ngăn cản.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không phải đóng cấp dưỡng nuôi con chung, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi có quyết định thay đổi khác.

4. Về án phí: Chị P phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn, đối trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí mà chị P đã nộp theo biên lai thu số AA/2015/ 0003656 ngày29/11/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chương Mỹ.

Báo cho nguyên đơn có mặt biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 25/03/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về