Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2019 VỀ TTRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 226/2018/TLST-HNGĐ ngày 03/12/2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXX-ST ngày 03/4/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim V (Vắng mặt), sinh năm 1970.

Địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

- Bị đơn: Ông Phan Quang B (Vắng mặt), sinh năm 1960.

Địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình điều tra  bà Nguyễn Thị Kim V (nguyên đơn) trình bày: Bà và ông Phan Quang B đăng ký kết hôn vào ngày 14/01/1991, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Trong thời gian chung sống, ông bà có ba người con chung: cháu Phan Quang H, sinh ngày 08/12/1996, cháu Phan Nguyễn Lệ H sinh ngày 14/7/2000 và cháu Phan Ngọc T sinh ngày 06/1/2006. Về nguyên nhân mâu thuẫn bắt đầu vào năm 2011, do ông B thường xuyên uống rượu và đập phá nhà cửa đánh đập vợ con, không để cho cuộc sống yên ổn, vợ chồng bà cũng sống ly thân từ năm 2011 đến nay và không hàn gắn được, chồng bà không quan tâm đến gia đình, vợ con, dần tình cảm vợ chồng đã không còn nữa, từ khi ly thân ông B cũng không hề quan tâm ngó ngàng đến con cái, một mình bà nuôi con. Vì vậy bà V đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông B.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông B.

Về con chung: Do hai cháu Phan Quang H và Phan Nguyễn Lệ H đều đã đủ tuổi trưởng thành nên bà V không yêu cầu gì, bà V xin được nuôi cháu Phan Ngọc T, sinh ngày 06/01/2006 và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và công nợ: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Phan Quang B (bị đơn): trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; các giấy triệu tập và thông báo về phiên hòa giải đối với ông Phan Quang B, mặc dù đã nhận được các văn bản tố tụng do Tòa án tống đạt nhưng ông B cố tình vắng mặt không có lý do trong tất cả các lần triệu tập và hòa giải, xét xử tại Tòa án. Do ông B cố tình vắng mặt nên không có lời khai cũng như không cung cấp được cho Tòa án chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và phản bác lại đối với yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, anh Ngọc phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Đại diệnViện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà xác định việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm đều tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; Tòa án đã thụ lý và giải quyết vụ án là đúng với thẩm quyền theo quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào quy định tại Điều 51, 56, 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim V được ly hôn với ông Phan Quang B.

Về  nuôi  con  chung,  cấp  dưỡng:  Giao  cháu  Phan  Ngọc  T,  sinh  ngày 06/01/2006 cho bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi  cháu đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

Về chia tài sản chung và công nợ chung: không có, không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bà Nguyễn Thị Kim V (nguyên đơn) phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng:

[1]Về quan hệ pháp luật tranh chấp: bà Nguyễn Thị Kim V yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn với ông Phan Quang B, đây là tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn (ông Phan Quang B) có đăng ký hộ khẩu và hiện đang sinh sống tại Thôn Đức Lễ B, xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý, giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]Về sự vắng mặt của các đương sự: Bà Nguyễn Thị Kim V (nguyên đơn) vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên bà V đã có đơn xin xét xử vắng mặt gửi đến Tòa án. Đối với ông Phan Quang B (bị đơn) đã được Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil triệu tập hợp lệ đến 02 lần (tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa) để tham gia phiên tòa nhưng ông B cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

2. Về nội dung vụ án:

[4]2.1. Về quan hệ hôn nhân: Vào ngày 14/01/1991 ông B, bà V kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Lẽ ra, khi chung sống với nhau thì ông bà phải yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững. Tuy nhiên trong quá trình chung sống bà V và ông B thường xuyên mâu thuẫn cải vã, bất đồng quan điểm, trong cuộc sống hàng ngày chồng thường xuyên nhậu nhẹt không quan tâm đến gia đình dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Trong quá trình điều tra ông B không hợp tác để giải quyết vụ án, qua xác minh ở chính quyền địa phương được biết ông bà đã sống ly thân từ lâu, không báo với địa phương hòa giải nên địa phương không biết chính xác năm nào, tuy nhiên qua đó xác định được việc mâu thuẫn, chung sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân của ông bà không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần cần căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn (bà Nguyễn Thị Kim V).

[3]2.2. Về con chung: Hiện cháu Phan Ngọc T, sinh ngày 06/01/2006 đang ở với bà V, từ khi vợ chồng ly thân đến nay cháu đều ở với mẹ, Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của các con chưa thành niên.

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì thì Tòa án quyết định giao con cho một bên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Hiện bà V có công việc buôn bán kinh doanh ở chợ ổn định, có chỗ ở ổn định và từ trước đến nay cháu T cũng đang ở với bà V và có nguyện vọng ở với bà V. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần giao cháu Phan Ngọc T, sinh ngày 06/01/2006 cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi cháu Tiến đủ 18 tuổi.

[4]2.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5]2.4. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6]3. Về án phí: Căn cứ Điều 144, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân   sự  năm 2015 và  điểm  a   khoản 5 Điều  27 của  Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì nguyên đơn (bà Nguyễn Thị Kim V) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[7]Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 144, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 58 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim V về việc ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị Kim V được ly hôn với ông Phan Quang B (chấm dứt quan hệ hôn nhân).

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Phan Ngọc T, sinh ngày 06/01/2006  cho bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc, giáo dục con chung, người trực tiếp nuôi con không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục cháu.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110 ; Điều 117 và Điều 119 Luật Hôn nhân gia đình 2014.

4. Về chia tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

5. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim V phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003255 ngày 29/11/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về