TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ÂN THI, TỈNH HƯNG YÊN
BẢN ÁN 11/2018/HSST NGÀY 10/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 04 năm 2018 tại trụ sở TAND huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 09/2018/HSST ngày 12/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2018/QĐXXST-HS ngày 27/3/2018 đối với :
Bị cáo: Bùi Trung H SN 1985; Giới tính: Nam
Nơi sinh và nơi cư trú: T thị trấn  T,  T, H.
Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: 12/12.
Họ tên cha: Bùi Trung D SN 1957. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Họ tên mẹ: Bùi Thị V SN 1960. Nghề nghiệp: Trồng trọt.
Em gái: Bùi Huyền T SN 1987. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Em gái: Bùi Thị Th SN 1993. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Vợ là Hoàng Thị M SN 1986. Nghề nghiệp: Trồng trọt.
Có 02 con là Bùi Trung Th SN 2007 và Bùi Thị Thành TSN 2010
Tiền án, tiền sự: Chưa
Bị cáo Bùi Trung Hiếu đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Kết luận giám định số 22/KLGĐ - PC54 ngày 25/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Bùi Trung Hiếu là ma túy loại Methamphetamine, có trọng lượng 21,1812 gam. Methamphetamine, STT: 67 danh mục II Nghị định 82/2013/NĐ - CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ. Sau giám định hoàn lại đối tượng giám định bao gồm: 21,0456 gam mẫu gửi giám định và bao gói thu của Bùi Trung Hiếu trong bao niêm phong số 22/KLGĐ.
Quá trình điều tra, Bùi Trung Hiếu đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Hiếu khai số ma túy mua của của thanh niên tên Luyến mục đích mang về cất giấu và để sử dụng dần.
Đối với thanh niên tên Luyến, Hiếu khai là người bán ma túy cho Hiếu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ân Thi đã tiến hành xác minh tại thôn Ba Đông và tại xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ, nhưng không làm rõ được người có tên Luyến như Hiếu đã khai.
Đối với anh Bùi Đức Thịnh do không biết Hiếu thuê xe taxi để chở đi mua ma túy về sử dụng; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ân Thi không xử lý.
Về vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ân Thi thu giữ: 01 túi nilon màu trắng có viền màu đỏ kích thước (7,5 x 06)cm bên trong chứa ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 21,1812 gam, sau giám định cơ quan giám định hoàn lại 21,0456 gam mẫu gửi giám định và bao gói trong bao niêm phong số 22/KLGĐ; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen bên trong lắp sim số thuê bao 0968.750.540, số tiền 150.000 đồng, và 60 túi nilon mỗi túi có kích thước (02 x 02)cm của Bùi Trung Hiếu.
Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do cơ quan CSĐT công an huyện Ân Thi đã thu thập được, phù hợp với nội dung bản cáo trạng mà VKSND huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên đã truy tố bị cáo.
Cáo trạng số 10 ngày 12 tháng 02 năm 2018 của VKS huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên đã truy tố bị cáo Bùi Trung Hiếu phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Đại diện VKS giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX:
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Trung Hiếu phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 ; Điều 135; điểm a,c khoản 2; điểm c khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: bị cáo Bùi Trung Hiếu từ 7 năm 06 tháng đến 8 năm tù, thời gian tính từ ngày 24/12/2017. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 21,0456g Methamphetamine; 60 túi nilon cùng sim điện thoại số 0968750540
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen có đặc điểm như biên bản quản lý vật chứng.
Trả lại bị cáo số tiền 150.000đ
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Cơ quan điều tra công an huyện Ân Thi; Kiểm sát viên, VKSND huyện Ân Thi đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự , thủ tục tố tụng theo quy định của BLTTHS. Bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Bản cáo trạng của VKS đã truy tố: Khoảng 18h00 ngày 24/12/2017, Bùi Trung Hiếu đã có hành vi tàng trữ 01 túi nilon có chứa ma túy trong người đã bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Ân Thi bắt quả tang tại địa phận xã Hạ Lễ, huyện Ân Thi. Theo Kết luận giám định số 22/KLGĐ - PC54 ngày 25/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Bùi Trung Hiếu là ma túy loại Methamphetamine, có trọng lượng 21,1812 gam. Methamphetamine, STT: 67 danh mục II Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ.
HĐXX có đủ cơ sở kết luận : Bị cáo Bùi Trung Hiếu phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/NQ14 ngày 20/62017; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 thì điểm g khoản 2 Điều 249 của BLHS năm 2015 có lợi cho bị cáo hơn so với điểm m khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 nên sẽ áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 của BLHS năm 2015 để xét xử đối với hành vi phạm tội của bị cáo.
Như vậy, VKSND huyện Ân Thi đã truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt mức độ của hành vi phạm tội, HĐXX cần cân nhắc xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào, tại CQĐT cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sù, phạm tội lần đầu nhưng lại phạm tôi rất nghiêm trọng nên xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, bắt bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.
Về hình phạt bổ sung: Xét về hoàn cảnh kinh tế cũng như việc bị cáo không có việc làm ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền là đối với bị cáo.
Về vật chứng: 21,0456g Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định là mặt hàng cấm nên cho tịch thu, tiêu hủy.
Chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước, còn đối với số tiền 150.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Trung Hiếu phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”
Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 điểm c khoản Điều 47 BLHS năm 2015 ; Điều 135; điểm a,c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS ; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Trung Hiếu 07 năm 06 tháng tù, thời gian tính từ ngày 24/12/2017. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 21,0456g Methamphetamine.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen có đặc điểm như biên bản quản lý vật chứng.
Trả lại bị cáo số tiền 150.000đ
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.
Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 11/2018/HSST ngày 10/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 11/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ân Thi - Hưng Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về