Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 11/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 57/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2018, về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm Hữu H, sinh năm 1976;

- Bị đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1977;

Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố V, thị trấn M, huyện L, tỉnh Nam Định. Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn ông Phạm Hữu H trình bày: Ông H và bà Lê Thị T kết hôn với nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 06 tháng 8 năm 1998 tại Uỷ ban nhân dân xã M, huyện L, tỉnh Nam Định.

Cuộc sống vợ chồng nhiều mâu thuẫn, do tính cách không hợp nhau, bà T đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, ông H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn bà T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con, con đầu tên là Phạm Thị T, sinh ngày 03 tháng 6 năm 1999; con thứ hai tên là Phạm Tùng L, sinh ngày 30 tháng 5 năm 2005. Khi ly hôn, ông H đề nghị Tòa án giao con cho ông nuôi dưỡng, không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong thời gian chuẩn bị xét xử, ông H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và đơn xin xét xử vắng mặt.

Đối với bị đơn bà Lê Thị T đã được Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án, hai thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa. Nhưng bà T không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của ông H, không đến Tòa án tham gia tố tụng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng.

Về nội dung: Tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông H; về con chung, căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình, giao con cho ông H nuôi dưỡng; chấp nhận đề nghị của ông H, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con; về án phí ly hôn sơ thẩm ông H phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét yêu cầu của ông H, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Tại phiên tòa, vắng mặt nguyên đơn là ông H, ông H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H.

Bị đơn là bà T không có yêu cầu phản tố, được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T.

[2] Về hôn nhân: Giữa ông H và bà T kết hôn với nhau tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã M, huyện L, tỉnh Nam Định ngày 06 tháng 8 năm1998, đúng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình  năm 2000 nên là hôn nhân hợp pháp.

Do tính cách không hợp nhau nên cuộc sống vợ chồng giữa ông H và bà T đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, đến nay vợ chồng đã có một thời gian dài không còn chung sống, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Xét thấy, vợ chồng đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên việc giải quyết cho ông H ly hôn bà T là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Giữa ông H và bà T có hai con, con đầu tên là Phạm Thị T, sinh ngày 03 tháng 6 năm 1999, đã thành niên; con thứ hai tên là Phạm Tùng L, sinh ngày 30 tháng 5 năm 2005, hiện tại cháu L đang được ông H nuôi dưỡng, nguyện vọng của cháu L là cháu muốn được ở với bố. Xét đề nghị của ông H muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L và không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng nuôi con chung, đối với bà T không có ý kiến về yêu cầu này. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cháu L được giao cho ông H nuôi dưỡng. Việc ông H không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng nuôi con là tự nguyên nên được chấp nhận. Bà T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung: Ông H và bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông H có nghĩa vụ nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Ông H và bà T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa ông Phạm Hữu H và bà Lê Thị T.

2. Về con chung: Giao cho ông Phạm Hữu H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Phạm Tùng L, sinh ngày 30 tháng 5 năm 2005 cho đến khi trưởng thành hoặc khi ông H và bà T có yêu cầu khác. Bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà T không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Ông H phải nộp án phí là 300.000 đồng, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí tài sản đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2016/0000901 ngày 10 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, ông H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Ông H và bà T có quyền kháng cáo đối với bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về