Bản án 11/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN  11/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Hôm nay, ngày 28 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu. Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2017/HSST ngày 02 tháng 11 năm 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2017/HSST-QĐ ngày 16/11/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thị Kim L; Tên gọi khác không; Sinh năm 1975; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt bản TT, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu.; Dân tộc Kinh; Quốc tịch Việt Nam; Tôn giáo không; Trình độ học vấn 7/12; Nghề nghiệp tự do; Tiền án, tiền sự không; Bố Trần Văn T, sinh năm 1945; Mẹ Trần Thị C, (đã chết); Anh chị em ruột: Gia đình bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Chồng Đỗ Thùy D, sinh năm: 1970 (Đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2004; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16.8.2017 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 15.8.2017, tại khu vực trước cửa nhà ở đường 4D cũ của Trần Thị Kim L thuộc bản TT, Thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu, Trần Thị Kim L đang có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi lô điểm trái phép với Nguyễn Xuân T, Đặng Văn B với tổng số tiền là 5.875.000 VNĐ thì bị Cơ quanCSĐT (PC45) Công an tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo khai nhận: Năm 2006, Trần Thị Kim L được hợp đồng làm đại lý xổ số cho công ty xổ số kiến thiết tỉnh Lai Châu. Lợi dụng việc làm đại lý xổ số cho Nhà nước nên ngày01.7.2017, khi một người phụ nữ khoảng 50 tuổi, tự giới thiệu tên P, nhà ở Hà Nội (không rõ địa chỉ cụ thể) đến nhà gặp Liên, thỏa thuận việc ghi lô điểm trái phép, L đã đồng ý. Giữa P và L có thỏa thuận: Nếu khách đánh lô điểm trái phép thì thu của khách 23.500 đồng/điểm và chuyển lại cho P 22.500 đồng/điểm, L hưởng lợi 1.000 đồng/điểm. Nếu khách trúng thưởng thì trả cho khách 80.000 đồng/điểm trúng thưởng. L và P thống nhất 18 giờ hàng ngày, L dùng số điện thoại 0125.9374.192 để nhắn tin, gọi điện cho P theo số 0966.201.220 để chuyển tin nhắn hoặc trực tiếp gọi điện cho P để thông báo về số lô, số tiền khách đánh. Để làm tin, P đặt cọc cho Liên 30.000.000 đồng để nếu khách trúng thì L ứng tiền đó ra thanh toán. Nếu khách trúng thưởng nhiều thì P sẽ chuyển tiền vào tài khoản cho L để thanh toán. Trong khoảng thời gian từ ngày 01.07.2017 đến ngày bị bắt, L đã nhận ghi đề trái phép cho nhiều đối tượng (không rõ lai lịch, địa chỉ) và đã chi hết số tiền 30.000.000 đồng mà P đã đặt cọc làm tin.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 15.8.2017, khi L đang ghi lô tô, bán xổ số nhà nước trước cửa nhà mình thì có Nguyễn Xuân T sinh năm 1987, trú tại Bản G, xã BG, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu và Đặng Văn B sinh năm 1993, trú tại bản H P, xã BB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu đến đặt vấn đề ghi lô điểm trái pháp luật. Liên đồng ý. Thái ghi các số lô điểm 58, 85, 34 mỗi số 50 điểm x 23.500 đồng/ điểm =3.525.000 đồng. B ghi các số lô điểm trái phép 02 con là 05, 50 mỗi số 50 điểm x23.500 đồng/ điểm = 2.350.000 đồng. Khi L và T, B đang giao nhận tiền ghi lô điểm thì bị cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang. Tổng số tiền mà L đánh bạc với Nguyễn Xuân T và Đặng Văn B là 5.875.000 đồng.

Trong quá trình bắt quả tang, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC 45) công an tỉnh Lai Châu đã thu giữ: 01 bút mực màu đen, trên nắp bút có ghi chữ Biao Dian-GP777; Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành là 5.875.000 đồng; 01 mảnh giấy màu trắng được cắt ra từ tờ giấy A4 dùng để in kết quả xổ số; 01 mảnh giấy nhỏ trên tờ giấy có số lô 34, 85, 58, 05, 50/50; 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2 đã cũ.

Tại bản cáo trạng số: 18/KSĐT-TA ngày 02/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố Trần Thị Kim L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đưa ra các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố .

Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật hình sự cần tịch thu tiêu hủy 01 bút mực màu đen, trên nắp bút có ghi chữ

Biao Dian-GP777; 01 mảnh giấy màu trắng được cắt ra từ tờ giấy A4 dùng để in kết quả xổ số; 01 mảnh giấy nhỏ trên tờ giấy có số lô 34, 85, 58, 05, 50/50. Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành là 5.875.000 đồng. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2 đã cũ.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là thống nhất với nhau và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố.Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 15.8.2017, khi L đang ghi lô tô, bán xổ số nhà nước trước cửa nhà mình thì có Nguyễn Xuân T và Đặng Văn B đến đặt vấn đề ghi lô điểm trái pháp luật. L đồng ý. T ghi các số lô điểm 58, 85, 34 mỗi số 50 điểm x 23.500 đồng/ điểm = 3.525.000 đồng. B ghi các số lô điểm trái phép 02 con là 05, 50 mỗi số 50 điểm x 23.500 đồng/ điểm = 2.350.000 đồng. Khi L và T, B đang giao nhận tiền ghi lô điểm thì bị cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang. Tổng số tiền mà L đánh bạc với Nguyễn Xuân T và Đặng Văn B là 5.875.000 đồng.

Hành vi phạm tội như đã nêu trên của Trần Thị Kim L là nguy hiểm cho xã hội, đã phạm vào tội “Đánh bạc”. Tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định:

“Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng được Bộ luật hình sự bảo vệ. Bị cáo hiểu được điều đó nhưng chỉ vì ham đồng tiền bất chính mà bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt theo quy định của điều luật đối với bị cáo. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo để giảm nhẹ phần nào mức hình phạt có thể áp dụng Điều 30 Bộ luật Hình sự cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” nhưng do bị cáo không có nghề nghiệp, kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật hình sự cần tịch thu tiêu hủy 01 bút mực màu đen, trên nắp bút có ghi chữ Biao Dian-GP777; 01 mảnh giấy màu trắng được cắt ra từ tờ giấy A4 dùng để in kết quả xổ số; 01 mảnh giấy nhỏ trên tờ giấy có số lô 34, 85, 58, 05, 50/50. Tịch thu sung quỹ số tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành là 5.875.000 đồng. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2 đã cũ.

Về các nội dung liên quan đến vụ án:

- Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Xuân T và Đặng Văn B, do chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên bằng hình thức cảnh cáo. Theo lời khai của bị cáo đối tượng tên P sử dụng số điện thoại 0966201220 là người đã đặt vấn đề bị cáo làm đại lý ghi lô điểm trái phép. Kết quả không điều tra được nhân thân, lý lịch của P.Theo thông tin xác minh chủ đăng ký thuê bao số 0966201220 là Nguyễn Thị G Quá trình điều tra xác định, G không sử dụng số thuê bao trên. Đối với các đối tượng T, H, T, S, T quá trình điều tra, không làm rõ được các đối tượng và có tham gia ghi lô điểm trái phép. Đối với số tiền 30.000.000 đồng mà L khai nhận từ đối tượng tên P, L đã dùng để chi trả hết cho khách đánh lô điểm trái phép. Quá trình điều tra, ngoài lời khai của L, không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh việc L có nhận số tiền này nên không đủ cở sở để xem xét trách nhiệm hình sự cũng như áp dụng các biện pháp tư pháp đối với số tiền trên. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thị Kim L phạm tội: “Đánh bạc”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46, Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim L 05 (Năm) triệu đồng.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu hủy 01 bút mực màu đen, trên nắp bút có ghi chữ Biao Dian- GP777; 01 mảnh giấy màu trắng được cắt ra từ tờ giấy A4 dùng để in kết quả xổ số; 01 mảnh giấy nhỏ trên tờ giấy có số lô 34, 85, 58, 05, 50/50. Tịch thu sung quỹsố tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành là 5.875.000 đồng. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2 đã cũ (Vật chứngđã được niêm phong và bàn giao theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quanThi hành án dân sự và Công an tỉnh Lai Châu ngày 08/11/2017).

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Luật phí và lệ phí, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016  bị cáo Trần Thị Kim L phải  chịu200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
  • Tên bản án:
    Bản án 11/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội đánh bạc
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    11/2017/HSST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    28/11/2017
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:11/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về