Bản án 11/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 11/2017/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2017 VỀ LY HÔN,TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đăk Song xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 92/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2017 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Yến Ph, sinh năm 1993, có mặt

Nơi cư trú: Bon M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn Tr, sinh năm 1995, có mặt. Nơi cư trú: Bon M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07/6/2017 và, trong quá trình làm việc cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến Phương trình bày: Chị Nguyễn Thị Yến Ph kết hôn với anh Phạm Văn Tr vào 03/4/2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Trường Xuân, huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông, hôn nhân tự nguyện không bị ai ép buộc lừa dối. Quá trình chung sống chị Ph và anh Tr có 02 con chung là cháu Phạm Nguyễn Phương A, sinh ngày 05/11/2016 và cháu Phạm Mạnh Tr, sinh ngày 25/6/2015. Đời sống hôn nhân giữa vợ chồng chị Ph và anh Tr thường xuyên cãi vả, anh Tr thường xuyên đi chơi về khuya, nhậu nhẹt, không quan tâm đến đời sống gia đình mặc dù chị Ph đã khuyên răn rất nhiều lần. Do không chịu đựng được cuộc sống như vậy nên đến tháng 10/2016 thì chị Ph và anh Tr bắt đầu sống ly thân cho đến nay. Hiện nay chị Ph không còn tình cảm gì với anh Tr nữa nên chị Ph yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Tr.

Trong bản tự khai ngày 02/8/2017 và quá trình làm việc cũng như tại phiên tòa bị đơn anh Phạm Văn Trường trình bày: Anh Phạm Văn Tr kết hôn với chị Nguyễn Thị Yến Ph vào ngày 03/4/2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Trường Xuân, huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông, hôn nhân tự nguyện không bị ai ép buộc lừa dối. Quá trình chung sống chúng tôi có 02 con chung là cháu Phạm Nguyễn Phương A, sinh ngày 05/11/2016 và cháu Phạm Mạnh Tr, sinh ngày 25/6/2015. Đời sống hôn nhân giữa anh Tr và chị Ph có nhiều mâu thuẫn, cãi vả do anh Tr thường xuyên chơi bời, nhậu nhẹt. Tuy nhiên, anh Tr hiện nay vẫn còn tình cảm với chị Ph nên anh Tr không đồng ý ly hôn với chị Ph.

Quá trình xác minh tình trạng hôn nhân, đại diện UBND xã cung cấp, anh Tr, chị Ph có mâu thuẫn, chị Ph đã có lần gửi đơn ra UBND xã để yêu cầu hòa giải và sau đó chị Ph đã rút đơn. Đại diện Bon M và hàng xóm láng giềng không nắm rõ mâu thuẫn cụ thể nhưng xác định anh Trường thường xuyên chơi bời, nhậu nhẹt, không thấy anh Tr quan tâm đến gia đình.

Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự giữ nguyên quan điểm của mình, yêu cầu Hội đồng xét xử (HĐXX) giải quyết theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của HĐXX, Thư ký là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự . Đối với nội dung vụ án, đại diện VKS đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Yến Phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Ngày 03/4/2015 anh Phạm Văn Tr và chị Nguyễn Thị Yến Ph kết hôn với nhau, việc kết hôn là hợp pháp, quá trình chúng sống giữa anh Tr và chị Ph có 02 con chung. Nay chị Ph yêu cầu ly hôn và nuôi con chung. Vì vậy, HĐXX nhận thấy quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự . Anh Phạm Văn Tr hiện đang cư trú tại Bon M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông. Vì vậy Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2] Về quan hệ hôn nhân giữa anh Phạm Văn Tr và chị Nguyễn Thị Yến Ph, HĐXX nhận thấy: Chị Nguyễn Thị Yến Ph và anh Phạm Văn Tr kết hôn với nhau vào ngày 03/4/2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Trường Xuân, huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông theo trích lục kết hôn mà chị Nguyễn Thị Yến Ph cung cấp cho Tòa án. Khi kết hôn cả hai bên đều tự nguyện, không bị ái ép buộc là lừa dối. Vào thời điểm kết hôn, cả anh Tr và chị Ph đều đã đủ tuổi kết hôn vì vậy quan hệ hôn nhân giữa anh Tr và chị Ph là hợp pháp.

[3]. Về tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống, giữa anh Tr và chị Ph đều thừa nhận có nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vả lẫn nhau. Anh Tr thường xuyên đi chơi về khuya, nhậu nhẹt, ít quan tâm đến gia đình, trong khi chị Ph phải một mình chăm lo cho cả gia đình. Chính quyền địa phương cũng xác nhận giữa anh Tr và chị Ph có mâu thuẫn, chị Ph đã từng yêu cầu UBND xã hòa giải. Đại diện bon M, xã N và hàng xóm láng giềng tuy không biết mâu thuẫn cụ thể như thế nào nhưng cũng thấy anh Tr thường xuyên chơi bời, ít quan tâm gia đình. Thực tế, chị Ph và anh Tr đã sống ly thân từ tháng 10/2016 đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn giữa anh Tr, chị Ph là có thật, mâu thuẫn thường xuyên kéo dài và ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Yến Ph là có cơ sở nên cần chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, anh Tr và chị Ph có 02 con chung là cháu Phạm Mạnh Tr, sinh ngày 25/6/2015 và cháu Phạm Nguyễn Phương A, sinh ngày 05/11/2016. HĐXX xét thấy cả 02 con chung của anh Tr, chị Ph đều chưa đủ 36 tháng tuổi nên cần giao cho mẹ là chị Nguyễn Thị Yến Ph nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Yến Ph không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Yến Phương phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Điều 144 BLTTDS; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến Ph.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Yến Ph được ly hôn với anh Phạm Văn Tr (chấm dứt quan hệ hôn nhân);

Về con chung: Giao hai con chung là cháu Phạm Mạnh Tr, sinh ngày 25/6/2015 và cháu Phạm Nguyễn Phương A, sinh ngày 05/11/2016 cho chị Nguyễn Thị Yến Ph nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Anh Phạm Văn Tr được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền này. Trường hợp anh Tr lạm dụng quyền thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung thì chị Ph có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Tr.

Anh Phạm Văn Tr có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con khi cần thiết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Yến Ph phải chịu tiền án phí Dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Ph đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003597 ngày 16 tháng 6 năm 2017 của Cơ quan Thi hành án Dân sự huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về