Bản án 11/2017/DS-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 11/2017/DS-ST NGÀY 15/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng  9  năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa   xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 19/2017/TLST-DS ngày 04 tháng 7 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2017/QĐXX–ST ngày 14 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Quỹ tín dụng nhân dân xã  M.

Địa chỉ: xóm 3, xã  M, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Nguyễn Công Ng.

Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị quỹ tín dụng M,(có mặt).

* Bị đơn: Anh Mai Xuân Ng – sinh năm 1972:

Địa chỉ : xóm 3, xã Tr, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, (có mặt).

*Ni có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Th – sinh năm 1972. Địa chỉ : xóm 3, xã Tr, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án Quỹ tín dụng nhân dân xã  M - Người đại diện trình bày: Ngày 26/10/2011, Quỹ tín dụng nhân dân xã M nhận đơn đề nghị vay vốn của anh Mai Xuân Ng tại xóm 3, xã  Tr, huyện N(Người thừa kế là bà Nguyễn Thị Th-Vợ anh Mai Xuân Ng). Đề nghị vay: 200.000.000đ để xây dựng quầy bán thuốc và mua sắm trang bị phục vụ sinh hoạt gia đình. Sau khi xem xét thẩm định Quỹ tín dụng M duyệt cho anh Ng vay số tiền:180.000.000đ (Một trăm tám mươi triệu đồng), thời hạn vay 12 tháng, kể từ ngày 26/10/2011 đến 26/10/2012.

Ngày 26/10/2011 anh Ng, chị Th đã nhận đủ số tiền 180.000.000đ theo hồ sơ vay vốn số 2011.1.00846, ngày 26/10/2011, với lãi suất thỏa thuận 1,8%/tháng. Đến hạn trả nợ, anh Ng không có khả năng trả nợ. Vì vậy, anh Ng có đơn đề nghị Quỹ tín dụng  M cho gia hạn thêm 1 kỳ hạn nợ. Sau khi xem xét Quỹ tín dụng M cho anh Ng gia hạn thêm 1 kỳ hạn nợ đến ngày 26/10/2013.

Sau nhiều lần trả góp, tính đến ngày 18/9/2015 anh Ng đã trả được 25.000.000đ. Chốt đến ngày 22/5/2017 anh Ng còn nợ Quỹ tín dụng nhân dân M số tiền là:

-Số tiền gốc:155.000.000đ.

-Số tiền lãi  :258.559.000đ.

Tổng cộng :413.559.000đ(Bốn trăm mười ba triệu năm trăm năm mươi chín nghìn đồng chẵn).

Quỹ tín dụng  M đã đôn đốc, lập biên bản xử lý nhiều lần nhưng anh Ng vẫn không trả số tiền trên cho quỹ tín dụng nhân dân M.

Vì vậy, Quỹ tín dụng nhân dân xã M  khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Mai Xuân Ng trả số tiền:413.559.000đ và số tiền lãi tính từ ngày 22/5/2017 đến nay cho Quỹ tín dụng nhân dân xã M.

*Tại bản khai ngày 14/7/2017 anh Mai Xuân Ng trình bày: Công nhận và thống nhất là ngày 26/10/2011 vợ chồng tôi có vay của Quỹ tín dụng nhân dân xã M số tiền là 180.000.000đ để lấy vốn làm ăn. Do làm ăn bị thua lỗ nên đến nay vẫn chưa trả hết gốc và lãi cho Quỹ tín dụng M được. Nay quỹ tín dụng  M khởi kiện yêu cầu tôi trả số nợ như đã chốt đến ngày 22/5/2017 tôi hoàn toàn đồng ý. Nhưng hiện tại tôi chưa có khả năng trả nợ và xin Quỹ tín dụng nhân dân xã  M cho tôi thêm thời gian nữa mới có thể trả nợ được.

*Tại bản tự khai ngày 14/7/2017 chị Nguyễn Thị Th trình bày: Tôi công nhận và nhất trí là vợ chồng tôi có vay của Quỹ tín dụng M số tiền 180.000.000đ và đã trả được cho quỹ 5 tháng, mỗi tháng là;5.000.000đ(Năm triệu đồng). Vì vậy, số tiền gốc còn lại là :155.000.000đ và số lãi như Quỹ tín dụng  M đã chốt đến ngày 22/5/2017 thì tôi nhất trí hoàn toàn, nhưng vì làm ăn thua lỗ, không còn khả năng trả nợ nên xin được trả dần hàng tháng, còn nếu yêu cầu trả ngay thì gia đình tôi không trả được.

Tại biên bản hòa giải ngày 26/7/2017 người đại diện của nguyên đơn vẫn yêu cầu như nội dung đơn khởi kiện. Anh Ng đồng ý như yêu càu của đại diện Quỹ tín dụng nhân dân  M, nhưng cho anh xin thêm thời gian nữa mới có điều kiện trả nợ. Chị Th vắng mặt tại phiên hòa giải nên không thể hiện ý kiến của chị.

Tại phiên tòa, người đại diện của nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm là yêu cầu anh Ng phải trả số tiền tính đến ngày 22/5/2017 là: tiền gốc:155.000.000đ và số tiền lãi :258.559.000đ. Tổng cộng là:413.559.000đ và không yêu cầu anh Ng phải chịu số tiền lãi kể từ ngày 22/5/2017 đến thời điểm xét xử.. Anh Ng vẫn giữ nguyên quan điểm là đồng ý trả số nợ trên cho Quỹ tín dụng nhân dân xã M nhưng xin Quỹ tín dụng cho thêm thời gian nữa mới trả được

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Chị Th đã được nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ nhưng tại phiên tòa ngày 30/8/2017 chị vắng mặt, nên Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa.Tòa án đã giao Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho chị Th. Nhưng nay(ngày 15/9/2017) chị Th vẫn vắng mặt nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt chị Th.

[2] Về quan hệ pháp luật: Quỹ tín dụng nhân dân xã M cho anh Ng, chị Th vay vốn, nên quan hệ pháp luật vụ kiện này là quan hệ tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.

[3]Xét yêu cầu của Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân xã  M chấp nhận đơn đề nghị xin vay vốn với số tiền là 200.000.000đ. Nhưng sau khi thẩm định, xem xét, quyết định cho anh Ng vay 180.000.000đ(Một trăm tám mươi triệu đồng chẵn) với thời hạn vay 12 tháng(kể từ ngày 26/10/2011 đến ngày 26/10/2012), với lãi suất thỏa thuận là 1,8%/tháng là đúng sự thực và phù hợp qui định của pháp luật. Khi đến thời hạn trả nợ anh Ng vẫn không trả được hết số tiền gốc, Quỹ tín dụng  M đã gia hạn cho anh Ng vay tiếp 1 kỳ nữa(12 tháng). Nhưng đến ngày 18/9/2015 anh Ng chỉ trả được 25.000.000đ(Hai mươi lăm triệu đồng). Vì vậy, Quỹ tín dụng nhân dân xã  M và anh Ng đã thống nhất chốt nợ cuối cùng số tiền gốc anh Ng còn nợ là:155.000.000đ là đúng thực tế. Tính toán theo qui định của pháp luật và sự thoả thuận của các đương sự về lãi suất, chốt đến ngày 22/5/2017, anh Ng còn nợ Quỹ tín dụng nhân dân xã M: 155.000.000đ tiền gốc và 258.559.000đ tiền lãi; Tổng cộng là:413.559.000đ(Bốn trăm mười ba triệu năm trăm năm mươi chín nghìn đồng chẵn). Qua nhiều lần đôn đốc nhưng anh Ng, chị Th vẫn dây dưa, chây ì, không chịu trả số tiền trên cho Quỹ tín dụng  M. Nay Quỹ tín dụng nhân dân xã  M khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh Mai Xuân Ng trả số tiền trên là phù hợp, nên chấp nhận xem xét.

-Về lãi suất kể từ ngày chốt nợ(22/5/2017) đến ngày xét xử sơ thẩm (15/9/2017): Tại phiên tòa người đại diện Quỹ tín dụng không yêu cầu anh Ng phải trả. Xét ý kiến của đại diện nguyên đơn là tự nguyện và phù hợp pháp luật nên chấp nhận.

[4]Xét ý kiến của bị đơn anh Mai Xuân Ng: Anh Ng công nhận số nợ còn lại chưa trả cho Quỹ tín dụng nhân dân xã  M theo như đại diện nguyên đơn trình bày tại phiên tòa là đúng, nhưng vì làm ăn thua lỗ chưa trả được, khi nào có thì trả.

[5]Xét ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Th: Chị Th công nhận anh Ng và chị Th còn nợ Quỹ tín dụng  M số tiền như Quỹ tín dụng M nêu, nhưng vì gia đình làm ăn thua lỗ, không còn khả năng trả nợ, xin trả dần mỗi tháng một ít, còn nếu không thì không thể trả được.

Lời trình bày của anh Ng, chị Th là thể hiện sự chây ỳ, dây dưa, bỏ mặc, không có động cơ trả nợ, nên không thể chấp nhận được.

Từ những nhận xét, ý kiến của Quỹ tín dụng nhân dân xã M và của anh Ng, chị Th, HĐXX nghĩ cần xử buộc anh Mai Xuân Ng phải trả cho Quỹ tín dụng nhân dân xã M tổng số tiền: 413.559.000đ(Bốn trăm mười ba triệu năm trăm năm mươi chín nghìn đồng chẵn).

[6]Về án phí: Anh Mai Xuân Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho Quỹ tín dụng nhân dân xã M.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 463; 466 Bộ luật dân sự 2015; điểm b khoản 1 Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Tuyên xử:

-Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân xã M.

-Buộc anh Mai Xuân Ng phải trả cho Quỹ tín dụng nhân dân xã M:

+Số tiền là: 413.559.000đ(Bốn trăm mười ba triệu năm trăm năm mươi chín nghìn đồng chẵn).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành không thi hành thì hàng tháng ,người phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

*Về án phí: Buộc anh Mai Xuân Ng phải nộp: 20.542.000đ (Hai mươi triệu năm trăm bốn mươi hai nghìn đồng chẵn) án phí dân sợ sơ thẩm. Hoàn trả lại cho Quỹ tín dụng nhân dân xã M số tiền tạm ứng án phí đã nộp: 10.271.000đ(Mười triệu hai trăm bảy mốt nghìn đồng chẵn) theo biên lai thu tiền số: AA/2015/0004512 ngày 03/7/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nga Sơn.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án qui định tại các Điều 6, 7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

426
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2017/DS-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:11/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về