Bản án 111/2021/HS-ST ngày 21/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 111/2021/HS-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21/9/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 113/2021/TLST-HS, ngày 25/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2021/QĐXXST-HS ngày 18/9/2021 đối với các bị cáo:

1. LÒ VĂN N(tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 30/4/1994 Nơi sinh: huyện T tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: bản Chiềng Ban 1 xã Mường Kim; huyện T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn; 9/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Bố đẻ Lò Văn Thu, sinh năm 1963; mẹ đẻ Lò Thị Sươi, sinh năm 1966; Vợ Lò Thị Hoa, sinh năm 2002; Bị cáo có 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không; Năm 2016, Lò Văn N bị Chủ tịch UBND xã Mường Kim ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi: “ Vi phạm quy định về kiểm tra sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự”. Bị cáo bị bắt, bị tạm giữ từ 17 giờ ngày 16/5/2021, tạm giam từ ngày 25/5/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T.(Có mặt)

2. LÒ VĂN T (tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 05/01/1993 Nơi sinh: huyện T tỉnh Lai Châu Nơi cư trú: bản Ngã Ba, xã Mường Kim; huyện T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn; 9/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Bố đẻ Lò Văn Hơi, sinh năm 1964; mẹ đẻ Tòng Thị Văn, sinh năm 1968; Bị cáo chưa có vợ, con;Tiền án,tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, bị tạm giữ từ 17 giờ ngày 16/5/2021, tạm giam từ ngày 25/5/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T.(Có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Tòng Thị Văn, sinh năm 1968 - Trú tại: Bản Ngã Ba, xã Mường Kim; huyện T, tỉnh Lai Châu(Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/5/2021, Lò Văn N gặp Lò Văn T ở bản Chiềng Ban 1, xã Mường Kim, huyện T, tỉnh Lai Châu.N đã rủ T lấy xe mô tô của T chở N đi đến bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện T tìm mua Heroine, mục đích để cùng nhau sử dụng. T nói với N: Không có tiền mua Heroine và xe cũng hết xăng.N nói với T: cứ chở N đi, tiền xăng và tiền mua Heroine, N sẽ chi. T nhất trí điều khiển xe mô tô chở N đến Noong Thăng. Trên đường đi,N mua xăng xe cho T hết 30.000 đồng. Khi đến bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện T, N và T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông (N, T không rõ nhân thân, lai lịch). Qua trao đổi,N mua của người đó 01 gói Heroine với giá 300.000 đồng. Mua được Heroine,N cấu lấy một ít Heroine cùng T sử dụng, số Heroine còn lại N cầm trên tay. Sau đó,N và T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông khác,N tiếp tục mua 01 gói Heroine của người phụ nữ này với giá 50.000 đồng. Nhận được Heroine,N đổ dồn 02 gói Heroine thành 01 gói (gói bằng mảnh nilon màu trắng). Sau đó,N cầm gói Heroine trong lòng bàn tay trái và ngồi trên xe mô tô để T chở về. Hồi 16 giờ 20 phút cùng ngày, khi N và T di chuyển đến khu 8, thị trấn T, huyện T thì bị Công an thị trấn T bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của N và T là 01 gói Heroine có khối lượng 0,40 gam. Ngoài ra còn thu giữ của Lò Văn T 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại BLADE, biển kiểm soát 25T1 - 099.43.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 16/5/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật gửi giám định đối với số chất bột, màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn N, Lò Văn T gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 73 ngày 17/5/2021 của người giám định theo vụ việc kết luận: Chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn N, Lò Văn T có khối lượng 0,40 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 363 ngày 25/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

- Đối với chiếc xe mô tô biển, kiểm soát 25T1 - 099.43 thu giữ của Lò Văn T ngày 23/8/2021 Viện kiểm sát huyện T đã căn cứ vào đơn đề nghị của bà Tòng Thị Văn và ra quyết định xử lý vật chứng trao trả lại chiếc xe mô tô cho bà Tòng Thị Văn (mẹ bị cáo Lò Văn T).

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 0,34 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu thu giữ của Lò Văn N, Lò Văn T, hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Tại bản cáo trạng số: 94 /CT -VKS ngày 24/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Lò Văn N, Lò Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện T trình bày lời luận tội giữ N quan điểm truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn N, Lò Văn T phạm tôi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 - Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn N từ 18 tháng đến 24 tháng tù; xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù của hai bị cáo tính từ ngày 16/5/2021;

Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,34 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu đều thu giữ của Lò Văn N, Lò Văn T và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự Bị cáo N, T không bổ sung ý kiến gì thêm, nhất trí và không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tỉnh Lai Châu.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa ngày hôm nay Lò Văn N, Lò Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong xác định khối lượng, bản ảnh cân tịnh để xác định khối lượng, bản kết luận giám định số 363 ngày 25/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai nhận của cả hai bị cáo hoàn toàn phù hợp lời khai của chính các bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 16/5/2021, tại bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện T, tỉnh Lai Châu, Lò Văn N và Lò Văn T đã thực hiện hành vi mua trái phép hai gói Heroine với giá giá 350.000 đồng của 02 người không rõ lai lịch, mục đích để sử dụng. Cụ thể Tại bản Noong Thăng xã Phúc Than Lò Văn N và Lò Văn T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, không quen biết, qua trao đổi N mua được của người phụ nữ đó 01 gói Heroine với giá 300.000 đồng, mua đượcNcấu một ít cùng T sử dụng, số còn lại N cầm trên tay. Ngay sau đó,N và T lại gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khác,N lại tiếp tục mua một gói Heroine với giá 50.000 đồng. Mua được N đổ dồn hai gói Heroine thành một rồi cầm trong lòng bàn tay trái và ngồi sau xe mô tô để T trở về.

Hồi 16 giờ 20 phút cùng ngày, tại Khu 8, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu, Lò Văn N và Lò Văn T bị Công an bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 0,40 gam Heroine.

Hành vi của Lò Văn N, Lò Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét về vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này Lò Văn N là người giữ vai trò chính, Lò Văn N là người rủ Lò Văn T đi mua ma túy để sử dụng đồng thời là người cung cấp tiền và trực tiếp 02 lần mua Heroine,N cũng là người trực tiếp tàng trữ, cất giấu Heroine do vậy bị cáo Lò Văn N phải chịu trách nhiệm với vai trò chính trong vụ án. Đối với Lò Văn T tuy không khởi xướng nhưng cũng là người thực hiện hành vi đồng phạm tích cực để có ma túy sử dụng Lò Văn T đã chuẩn bị phương tiện là xe mô tô để trở Lò Văn N giúp Lò Văn N thực hiện hành vi mua trái phép Heroine để sử dụng nên Lò Văn T phải chịu trách nhiệm với vai trò là người thực hành tích cực.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước ta đối với các chất ma túy và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội. Ma túy hiện nay trở thành vấn nạn nhức nhối cho toàn xã hội và bản các bị cáo khi sử dụng sẽ bị hủy hoại về sức khỏe, tinh thần rối loạn, giảm khả năng lao động, nhân cách bị tha hóa, làNnhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo là người trưởng thành có đủ khả năng nhận biết và điều khiển hành vi của mình, nhận thức được hành vi đã thực hiện là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện do vậy cần thiết phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn N, Lò Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khi quyết định hình phạt theo điểm s khoản 1 điều 51- Bộ luật hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: Đối với Lò Văn N là người giữ vai trò chính là người rủ Lò Văn T đi mua ma túy, là người trực tiếp cung cấp tiền và trực tiếp mua Herone, về nhân thân năm 2016, Lò Văn N bị Chủ tịch UBND xã Mường Kim ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi: “ Vi phạm quy định về kiểm tra sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự” do vậy cần có mức hình phạt cao hơn so với Lò Văn T. Đối với Lò Văn T là đồng phạm tích cực cùng N đi mua Heroine, chưa có tiền án tiền sự nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt khởi điểm của khung hình phạt là tương xứng

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện kinh tế của các bị cáo đều khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả hai bị cáo.

[6] Về biện pháp ngăn chặn: Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với hai bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án là: Đối với chiếc xe mô tô biển, kiểm soát 25T1 - 099.43 thu giữ của Lò Văn T. Ngày 23/8/2021 Viện kiểm sát huyện T đã căn cứ vào đơn đề nghị của bà Tòng Thị V xác định đây là tài sản chung của cả gia đình nên trả lại chiếc xe mô tô cho bà Tòng Thị Văn (mẹ bị cáo T) là phù hợp.

Vật chứng còn lại là 0,34 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu thu giữ của Lò Văn N, Lò Văn T là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy;

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Lò Văn N, Lò Văn T khai mua của hai người phụ nữ không rõ lai lịch nên không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm

[9] bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17, Điều 58 - Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo: Lò Văn N, Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

1. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lò Văn N 18(Mười tám) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 16/5/2021 Xử phạt bị cáo Lò Văn T 12(Mười hai) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 16/5/2021

2.Về vật chứng: Áp dụng vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,34 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu thu giữ của Lò Văn N, Lò Văn T

3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 điều 21, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Căn cứ điều 331, 333 – Bộ luật tố tụng hình sự Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2021/HS-ST ngày 21/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:111/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về