Bản án 111/2021/DS-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 111/2021/DS-ST NGÀY 30/06/2021 Về TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 169/2020/TLST- DS ngày 15 tháng 10 năm 2020 Về tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST-DS ngày 02/6/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2021/QĐST-DS ngày 18/6/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đ; địa chỉ: Số 199, đường Nguyễn Lương B, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Đỗ T, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên - Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần T, chức vụ: Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương (Văn bản ủy quyền số 303/2020/UQ-NĐDPL.12.01 ngày 08/7/2020).

Người đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn: Bà Đoàn Ngọc V, chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch Lạc Long Q; ông Vũ Văn V, chức vụ: Phó Giám đốc Phòng giao dịch Lạc Long Quân; ông Nguyễn Danh G và bà Phạm Thị Hải H, chức vụ: Chuyên viên Phòng giao dịch Lạc Long Quân - Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương (Văn bản ủy quyền số 584/2020/UQ- OCEANBANK.05.02 ngày 24/9/2020. Có mặt ông Nguyễn Danh Giang.

- Bị đơn:

1. Ông Nghiêm Văn Quang, sinh năm 1986;

2. Trần Thị Lượng, sinh năm 1988.

Đều trú tại: Thôn Thanh Nê, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội. Đều vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nghiêm Văn Có, sinh năm 1957 (bố ông Nghiêm Văn Quang);

2. Bà Dương Thị Tuyên, sinh năm 1959 (mẹ ông Nghiêm Văn Quang);

3. Cháu Nghiêm Văn Vinh, sinh năm 2009 (con ông Nghiêm Văn Quang);

4. Cháu Nghiêm Văn Duy, sinh năm 2011 (con ông Nghiêm Văn Quang);

Người đại diện hợp pháp của cháu Nghiêm Văn Vinh và cháu Nghiêm Văn Duy: Ông Nghiêm Văn Quang và bà Trần Thị Lượng (là bố, mẹ đẻ).

Đều trú tại: Thôn Thanh Nê, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội. Đều vắng mặt.

5. Bà Nghiêm Thị Hạnh, sinh năm 1984; trú tại: Thôn Trung Hoàng, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương, Chi nhánh Thăng Long, Phòng giao dịch Lạc Long Quân (sau đây gọi tắt Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương là Ngân hàng) ký “Hợp đồng cho vay” số 0030/2017-HĐCV/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017 cho vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng (sau đây gọi tắt là vợ chồng ông Quang) vay 400.000.000 đồng để bù đắp mua sắm nội thất, đồ dùng gia đình; thời hạn vay 60 tháng; lãi suất cho vay 09%/năm trong 12 tháng đầu tiên, sau đó được điều chỉnh 03 tháng/lần bằng lãi suất huy động 12 tháng trả lãi cuối kỳ + biên độ 3,5%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi suất phạt trên lãi chậm trả là 10%/năm; tiền gốc, tiền lãi trả hàng tháng. Ngày 29/8/2017, Ngân hàng đã giải ngân 400.000.000 đồng cho vợ chồng ông Quang theo “Giấy nhận nợ” số 0030/GNN-OCEANBANK.PGDLACLONGQUAN.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên thửa đất số 106, tờ bản đồ số 2, diện tích 511m2, địa chỉ: Thôn Thanh Nê, xã T, huyện C, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội). Đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 577889 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tây cấp cho hộ ông Nghiêm Văn Có ngày 27/12/2001, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00014 QSDĐ/422/QĐUB. Việc thế chấp thực hiện theo “Hợp đồng thế chấp bất động sản” số 0030/2017/HĐTC/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017, công chứng tại Văn phòng Công chứng Vĩnh Xuân, thành phố Hà Nội số 02957/2017/HĐTC. Quyển số 01/2017/TP/CC-SCC/HĐGD, giữa bên thế chấp là hộ gia đình ông Nghiêm Văn Có (gồm ông Nghiêm Văn Có, bà Dương Thị Tuyên, bà Nghiêm Thị Hạnh, ông Nghiêm Văn Quang) với bên nhận thế chấp là Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương, Chi nhánh Thăng Long, Phòng giao dịch Lạc Long Quân; mục đích thế chấp là để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay là vợ chồng ông Quang đối với Ngân hàng; đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội - Chi nhánh huyện C ngày 28/8/2017. Phạm vi bảo đảm của tài sản thế chấp là toàn bộ các nghĩa vụ trả nợ của bên vay.

Quá trình thực hiện, vợ chồng ông Quang đã trả được 82.873.337 đồng tiền gốc và 29.929.763 đồng tiền lãi. Do vợ chồng ông Quang vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng đã chuyển khoản nợ sang nợ quá hạn từ ngày 29/8/2018.

nh đến hết ngày 28/6/2021, vợ chồng ông Quang còn nợ Ngân hàng số tiền 448.491.206 đồng (gồm 317.126.663 đồng tiền nợ gốc, 68.860.050 đồng tiền lãi trong hạn, 50.619.126 đồng tiền lãi trên nợ gốc quá hạn và 11.885.367 đồng tiền lãi phạt trên lãi chậm trả).

Ngân hàng yêu cầu buộc vợ chồng ông Quang thanh toán toàn bộ số nợ tính đến hết ngày 28/6/2021 nêu trên; kể từ ngày 29/6/2021 vợ chồng ông Quang còn phải tiếp tục chịu các khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ. Trường hợp vợ chồng ông Quang không thanh toán được khoản nợ nêu trên, Ngân hàng có quyền đ nghị cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm không đủ để trả các khoản nợ thì vợ chồng ông Quang phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán hết số tiền nợ còn lại cho Ngân hàng. Vợ chồng ông Quang phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 5.000.000 đồng; Ngân hàng tự nguyện không yêu cầu buộc vợ chồng ông Quang phải chịu lãi trên số tiền này trong thời gian chậm thanh toán.

- Ý kiến của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo nội dung yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật, nhưng bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đến Tòa án làm việc, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ, không gửi cho Tòa án ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và ý kiến Về việc giải quyết vụ án.

- Tại “Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ” ngày 08/01/2021 thể hiện:

Tài sản thế chấp hiện do hộ gia đình ông Nghiêm Văn Có đang sử dụng và quản lý, không cho ai thuê mượn hay ở nhờ. Tài sản gắn liền với đất gồm 04 nhà cấp 4; 01 khu công trình phụ; 01 sân gạch đỏ; 02 cây mít; 01 mái tôn. Từ khi thế chấp cho đến nay, gia đình không xây dựng thêm gì. Những người đang ở trên đất gồm ông Nghiêm Văn Có, bà Dương Thị Tuyên, ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng, cháu Nghiêm Văn Vinh, cháu Nghiêm Văn Duy.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự khác không thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, việc xét xử vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ, đúng pháp luật. Về nội dung: Đ nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn thanh toán toàn bộ nợ gốc, lãi trong hạn và lãi quá hạn; chấp nhận yêu cầu được đ nghị xử lý phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng: Vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng vay vốn của Ngân hàng để bù đắp mua sắm nội thất, đồ dùng gia đình, nay tranh chấp Về nghĩa vụ thanh toán nên đây là tranh chấp dân sự. Căn cứ các điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện C, thành phố Hà Nội.

Trước khi mở phiên tòa xét xử vụ án vào ngày 30/6/2021, Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng tại phiên tòa, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Về nội dung yêu cầu của nguyên đơn:

[1]. Về yêu cầu buộc vợ chồng ông Quang thanh toán khoản nợ tính đến hết ngày 28/6/2021 và tiếp tục chịu tiền lãi kể từ ngày 29/6/2021:

- Đối với khoản tiền gốc và tiền lãi (lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt trên lãi chậm trả):

Thỏa thuận của các bên Về số tiền vay, lãi suất vay, nghĩa vụ thanh toán tiền gốc, tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt trên lãi chậm trả ghi trong “Hợp đồng cho vay” số 0030/2017-HĐCV/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017 và “Giấy nhận nợ” số 0030/GNN-OCEANBANK.PGDLACLONGQUAN là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Các chứng từ Về việc giải ngân, Về số tiền đã thanh toán, số tiền gốc, tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt trên lãi chậm trả chưa thanh toán do Ngân hàng cung cấp là chính xác. Bị đơn đã được thông báo, nhưng không đến Tòa án làm việc, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ, không gửi cho Tòa án ý kiến của mình đối với nội dung yêu cầu của Ngân hàng Về việc thanh toán khoản nợ. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng, buộc vợ chồng ông Quang phải thanh toán trả Ngân hàng khoản nợ tính đến hết ngày 28/6/2021 là 448.491.206 đồng (gồm 317.126.663 đồng tiền nợ gốc, 68.860.050 đồng tiền lãi trong hạn, 50.619.126 đồng tiền lãi trên nợ gốc quá hạn và 11.885.367 đồng tiền lãi phạt trên lãi chậm trả).

- Đối với yêu cầu buộc bị đơn phải tiếp tục chịu lãi kể từ ngày 29/6/2021:

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật các tổ chức tín dụng và thỏa thuận của các đương sự trong “Hợp đồng cho vay” số 0030/2017- HĐCV/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017 và “Giấy nhận nợ” số 0030/GNN-OCEANBANK.PGDLACLONGQUAN thì yêu cầu của Ngân hàng có căn cứ chấp nhận. Do vậy, kể từ ngày 29/6/2021 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ, vợ chồng ông Quang còn phải tiếp tục chịu lãi trên số nợ gốc và nợ lãi chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận trong “Hợp đồng cho vay” số 0030/2017-HĐCV/OCEANBANK. LACLONGQUAN ngày 28/8/2017 và “Giấy nhận nợ” số 0030/GNN-OCEANBANK. PGDLACLONGQUAN.

[2]. Về yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm và các tài sản hợp pháp khác:

Việc ký kết “Hợp đồng thế chấp bất động sản” số 0030/2017/HĐTC/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017, công chứng tại Văn phòng Công chứng Vĩnh Xuân, thành phố Hà Nội số 02957/2017/HĐTC. Quyển số 01/2017/TP/CC-SCC/HĐGD là hoàn toàn tự nguyện; nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật; hợp đồng được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định nên có hiệu lực pháp luật. Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được thông báo, nhưng không đến Tòa án làm việc, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ, không gửi cho Tòa án ý kiến của mình đối với nội dung yêu cầu của Ngân hàng Về việc xử lý tài sản bảo đảm. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng Về việc đ nghị được xử lý tài sản thế chấp bảo đảm cho khoản vay để thu hồi nợ trong trường hợp vợ chồng ông Quang không thanh toán được khoản nợ. Phạm vi bảo đảm là toàn bộ nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt trên lãi chậm trả của vợ chồng ông Quang cho Ngân hàng.

[3]. Về yêu cầu buộc vợ chồng ông Quang phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Quá trình giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản bảo đảm của khoản vay. Nguyên đơn đã nộp 5.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí thẩm định tại chỗ. Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải có nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu vợ chồng ông Quang phải chịu lãi trên số tiền này trong thời gian chậm thanh toán.

- Về án phí: Vợ chồng ông Quang phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Hoàn trả Ngân hàng tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 147, 157, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các điều 299, 323, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Áp dụng Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ Về Giao dịch bảo đảm; Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính Phủ Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ Về Giao dịch bảo đảm;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định Về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương đối với vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng Về việc buộc thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền gốc, tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn, tiền lãi phạt trên lãi chậm trả theo “Hợp đồng cho vay” số 0030/2017- HĐCV/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017 và “Giấy nhận nợ” số 0030/GNN-OCEANBANK.PGDLACLONGQUAN. Cụ thể:

1.1. Buộc vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng phải thanh toán trả cho Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương số tiền còn nợ tính đến hết ngày 28/6/2021 gồm các khoản sau:

- Tiền gốc: 317.126.663 đồng;

- Tiền lãi trong hạn: 68.860.050 đồng;

- Tiền lãi quá hạn: 50.619.126 đồng;

- Tiền lãi phạt trên lãi chậm trả: 11.885.367 đồng Tổng cộng: 448.491.206 đồng (Bốn trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm chín mươi mốt nghìn hai trăm linh sáu đồng).

1.2. Kể từ ngày 29/6/2021 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ, vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng còn phải tiếp tục chịu lãi trên số nợ chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn đã thỏa thuận trong “Hợp đồng cho vay” số 0030/2017-HĐCV/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017 và “Giấy nhận nợ” số 0030/GNN-OCEANBANK.PGDLACLONGQUAN.

2. Chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương Về việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Cụ thể:

- Trường hợp vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng không thanh toán được khoản nợ nêu trên, Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương có quyền đ nghị cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo “Hợp đồng thế chấp bất động sản” số 0030/2017/HĐTC/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017, công chứng tại Văn phòng Công chứng Vĩnh Xuân, thành phố Hà Nội số 02957/2017/HĐTC. Quyển số 01/2017/TP/CC-SCC/HĐGD Tài sản thế chấp được phát mại để thu hồi nợ là toàn bộ quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên thửa đất số 106, tờ bản đồ số 2, diện tích 511m2, địa chỉ: Thôn Thanh Nê, xã T, huyện C, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội). Đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 577889 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tây cấp cho hộ ông Nghiêm Văn Có ngày 27/12/2001, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00014 QSDĐ/422/QĐUB.

Phạm vi bảo đảm là toàn bộ nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt trên lãi chậm trả của vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng đối với Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương theo “Hợp đồng cho vay” số 0030/2017-HĐCV/OCEANBANK.LACLONGQUAN ngày 28/8/2017 và “Giấy nhận nợ” số 0030/GNN- OCEANBANK.PGDLACLONGQUAN.

- Khi xử lý tài sản thế chấp thì tất cả những người đang sinh sống tại nhà, đất là tài sản thế chấp nêu trên phải di chuyển đi chỗ khác để thi hành án.

- Trường hợp sau khi phát mại tài sản thế chấp, số tiền thu được không đủ để thanh toán toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương thì vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng phải có nghĩa vụ tiếp tục trả hết số tiền còn nợ cho Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương - Trường hợp số tiền thu được có giá trị lớn hơn số tiền vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng phải trả cho Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương thì số tiền còn lại sau khi thanh toán khoản nợ được trả lại cho hộ gia đình ông Nghiêm Văn Có.

- Trường hợp vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng trả được toàn bộ khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương phải làm thủ tục giải chấp cho hộ gia đình ông Nghiêm Văn Có theo quy định của pháp luật.

3. Vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng phải chịu 5.000.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Số tiền này Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương đã nộp tạm ứng để chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 08/01/2021 nên vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng phải trả lại cho Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương. Ghi nhận sự tự nguyện của Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương không buộc vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng phải chịu lãi trên số tiền này trong thời gian chậm thanh toán.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về án phí:

- Vợ chồng ông Nghiêm Văn Quang, bà Trần Thị Lượng phải nộp 22.139.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm;

- Hoàn trả Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại Dương 10.100.000 đồng (Mười triệu một trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0010166 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, thành phố Hà Nội.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2021/DS-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:111/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về