Bản án 111/2020/HSST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T N, TỈNH TN

BẢN ÁN 111/2020/HSST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường tòa án nhân dân thành phố T N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 117/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 29/5/1978.

ĐKHKTT và chỗ ở: tổ 4, phường D, thành phố TN, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12. Con ông Nguyễn Văn L, con bà Vũ Thị P (đều đã chết). Gia đình có 6 anh, chị, em. Bị cáo là con thứ sáu; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền sự: không - Tiền án: Tại Bản án số 524/HSST ngày 30/10/1997 của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Văn H 42 tháng tù về tội “Cướp tài sản của công dân”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2000. Chưa chấp hành khoản án phí.

- Nhân thân: 5 + Tại Bản án số 306 ngày 12/10/1995 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Nguyễn Văn H 12 tháng tù về tội “ Tổ chức dùng chất ma túy". Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/6/1996. Chấp hành xong khoản án phí và tiền phạt ngày 30/9/2009.

+ Tại Bản án số 136/HSST ngày 30/8/2001 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Nguyễn Văn H 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong khoản án phí ngày 31/10/2007.

+ Tại Bản án số 149/HSST ngày 21/9/2001 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Nguyễn Văn H 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/3/2005. Chấp hành xong khoản án phí ngày 28/9/2007.

+ Tại Bản án số 34/HSST ngày 27/3/2006 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Nguyễn Văn H 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/01/2008. Chấp hành xong khoản án phí ngày 09/5/2008.

+ Tại Bản án số 58/HSST ngày 11/3/2009 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Nguyễn Văn H 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/11/2010. Chấp hành xong khoản án phí ngày 13/8/2009.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2019 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến:

- Ông Bùi Quang H, sinh năm 1961, địa chỉ tổ 5, phường D, thành phố TN, (Vắng mặt tại phiên tòa);

- Ông Đào Văn C, sinh năm 1952, địa chỉ tổ 13, phường D, thành phố TN, (Vắng mặt tại phiên tòa);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút ngày 18/12/2019, Công an phường D, thành phố TN tiến hành mời đối tượng Nguyễn Văn H lên làm việc xét nghiệm ma túy định kỳ. Tại Công an phường D, H tự giác giao nộp từ trong túi áo khoác ngoài bên phải 02 gói giấy bạc trong đó 01 gói giấy bạc vỏ bên ngoài màu trắng bên trong màu vàng chứa chất bột màu trắng, 01 gói giấy bạc vỏ bên ngoài màu trắng bên trong màu vàng chứa chất bột màu hồng (theo H khai là Heroine và hồng phiến). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, thu giữ vật chứng theo quy định. Tiến hành mở niêm phong cân xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn H có khối lượng 0,185 gam (ký hiệu A2); số chất bột màu hồng có khối lượng 0,034 gam (ký hiệu A3).

Tại Kết luận giám định số 50/KL-KTHS ngày 26/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh TN kết luận:

- Chất bột màu trắng ký hiệu A2 là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,185 gam.

- Chất bột màu hồng ký hiệu A3 là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,034 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 18/12/2019, H một mình đi bộ từ nhà đến khu vực đầu cầu B thuộc phường V, thành phố TN mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, H gặp và mua của một người đàn ông không rõ lai lịch 02 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Mua xong, H cất 02 gói ma túy vừa mua được vào túi áo khoác bên phải và đi bộ tìm nơi sử dụng. Khi đi được một đoạn thì bị tổ công tác Công an phường D mời lên làm việc như trên.

Lời khai nhận của Nguyễn Văn H phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án: 02 bì niêm phong ký hiệu A2, A3. Hiện được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 134/CT-VKSTPTN ngày 18 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Nguyễn Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn H từ 30 đến 36 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A2 (bên trong có chứa 0,161 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2), mặt sau bì niêm phong ghi họ tên: Trương Đăng T và Ngô Hoàng Đ; 01 (một) bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A3 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu A3, mặt sau bì niêm phong có 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh TN và chữ ký ghi họ tên: Trương Đăng T và Ngô Hoàng Đ.

Vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 18/12/2019, tại phường D, thành phố Thái Nguyên , Nguyễn Văn H đang có hành vi tàng trữ 0,185 gam Heroine và 0,034 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường D, thành phố TN phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,185gam Heroine và 0,034gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a,...

i, Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm b đến điểm h khoản này”.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

5.1. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu như có 01 bản án về tội tổ chức sử dụng chất ma túy; có 04 bản án xét xử về tội trộm cắp tài sản các bản án nêu trên bị cáo đã chấp hành xong.

5.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

5.3. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Nguyễn Văn H, bị xét xử vụ án hình sự cụ thể: Tại Bản án số 524/HSST ngày 30/10/1997 của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Văn H 42 tháng tù về tội “Cướp tài sản của công dân”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2000, bị cáo chưa nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm. Quá trình xét xử tại phiên tòa bị cáo xác định phải nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm, tuy nhiên đến thời điểm bị cáo phạm tội mới bị cáo chưa nộp khoản tiền án phí, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật, bị cáo liên tục phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức án nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp, tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[6] Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu A2 (bên trong có chứa 0,161 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2); 01 (một) bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A3 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu A3 Vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên bị cáo khai là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Đối với số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Văn H khai đã mua của một người đàn ông không rõ lai lịch . Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

 1. Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 30 (ba mươi) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự vµ §iều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A2 (bên trong có chứa 0,161 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2), mặt sau bì niêm phong ghi họ tên: Trương Đăng T và Ngô Hoàng Đ; 01 (một) bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A3 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu A3, mặt sau bì niêm phong có 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh TN và chữ ký ghi họ tên: Trương Đăng T và Ngô Hoàng Đ. Vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng. Biên bản giao nhận vật chứng số 218 ngày 17/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2020/HSST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về