Bản án 111/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 111/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN QUỐC C, sinh ngày 23/4/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: xóm T H, xã H H, huyện T T, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị K (đều đã chết); vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

- Bản án số 141/1995/HSST ngày 14/12/1995 TAND thị xã Bắc Giang (nay là thành phố Bắc Giang) xử phạt 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa” (đã xoá án tích);

- Bản án số 44/2008/HSST ngày 01/12/2008 TAND huyện Thường Tín, Hà Nội xử phạt 7 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” (đã xoá án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/10/2019, có mặt.

2. NGUYỄN VĂN B, sinh ngày 21/8/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: thôn V X, xã N K, huyện T T, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Phạm Thị B (đều đã chết); có vợ Nguyễn Thị V và 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 43/2008/HSST ngày 01/12/2008 TAND huyện Thường Tín, Hà Nội xử phạt 7 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” (đã xoá án tích). Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/10/2019 đến ngày 15/10/2019, hiện tại ngoại có mặt.

3. PHẠM QUANG T, sinh ngày 26/12/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: thôn X Đ, xã V T, huyện T T, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quang T và bà Trương Thị Đ; có vợ Trần Thị T và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/10/2019 đến ngày 15/10/2019, hiện tại ngoại có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc C:

Ông Phạm Gia Linh - Luật sư Văn phòng luật sư APEC Việt Nam thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vu án:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 19XX; nơi cư trú: xóm Q T, xã H H, huyện T T, TP Hà Nội, có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Bích V, sinh năm 19XX; nơi cư trú: số nhà X phố V, thị trấn T T, huyện T T, TP Hà Nội, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 12 giờ 00 ngày 09/10/2019, tại khu vực đường Thượng Hiền, xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội, tổ công tác Đội 2 - Phòng CSĐT tội phạm về ma tuý - Công an TP Hà Nội bắt quả tang Nguyễn Văn B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu giữ của B: 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. B khai nhận chất bột màu trắng là Heroine, B mua của một người nam giới tên là C ở xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội với giá 200.000 đồng nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của B: 01 (một) thẻ ra vào công ty xây dựng Tiền Phong mang tên Nguyễn Văn B, 01 (một) ví màu đen; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu trắng có Sim số 096436XXXX; 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda màu xanh mang BKS 29X9-XXXX.

Hi 13 giờ 20 ngày 9/10/2019, tại khu vực đường Khê Hồi, xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội, tổ công tác Đội 2 - Phòng CSĐT tội phạm về ma tuý - Công an TP Hà Nội bắt quả tang Phạm Quang T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu giữ của T: 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. T khai nhận gói chất bột màu trắng là Heroine, T mua của người nam giới tên là C ở xã Hà Hồi, Thường Tín, Hà Nội với giá 100.000 đồng. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen có Sim số 096955XXXX, 01 (một) xe máy điện màu đen không có biển kiểm soát.

Cơ quan điều tra tiến hành cho Nguyễn Văn B và Phạm Quang T nhận dạng Nguyễn Quốc C qua ảnh, B và T đều nhận dạng được C là người đã bán ma tuý.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Quốc C tại xóm T H, xã H H, huyện T T, Hà Nội, Cơ quan điều tra thu giữ:

- 03 (ba) gói giấy màu trắng kích thước khoảng (3x1)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng.

- 04 (bốn) gói giấy màu trắng kích thước khoảng (2x1)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng.

- 01 (một) hộp giấy màu xanh kích thước khoảng (10x5)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng.

- 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng.

- 02 (hai) hai lưỡi dao lam đã qua sử dụng.

- 02 (hai) cân điện tử dính chất bột màu trắng.

Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của C: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có Sim số 038731XXXX, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu vàng không có Sim và số tiền 800.190.00 đồng.

Kết luận giám định số 6450 ngày 15/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận về số ma tuý thu giữ của Nguyễn Văn B: Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) gói giấy màu trắng là ma tuý loại Heroine, khối lượng: 0,145 gam.

Kết luận giám định số 6445 ngày 15/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận về số ma tuý thu giữ của Phạm Quang T: Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) gói giấy màu trắng là ma tuý loại Heroine, khối lượng: 0,137 gam.

Kết luận giám định số 6459 ngày 15/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận về số ma tuý thu giữ của Nguyễn Quốc C:

+ Chất bột màu trắng bên trong 07 (bảy) gói giấy màu trắng là ma tuý loại Heroine, tổng khối lượng: 0,685 gam.

+ Chất bột màu trắng 01 (một) hộp giấy màu xanh là ma tuý loại Heroine, khối lượng: 48,678 gam.

+ Chất bột màu trắng 01 (một) túi nilon là ma tuý loại Heroine, khối lượng: 0,202 gam.

+ 02 (hai) lưỡi dao lam và 02 (hai) cân điện tử và đều dính ma tuý loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quốc C khai nhận:

Do không có công việc ổn định, bản thân nghiện ma tuý nên từ năm 2017, C đã tìm mua Heroine về để bán lẻ cho khách kiếm lời. C quen biết một nam giới khoảng 35 đến 37 tuổi, quê ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đang làm nghề lái xe ôm tại khu vực bến xe Giáp Bát (C không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể), là người thường mua Hêrôine của C để sử dụng. Qua nói chuyện, người nam giới đặt vấn đề với C là có nguồn mua Heroine, nếu C muốn mua về bán lẻ thì sẽ đi mua hộ. Khoảng ngày 07/10/2019, C nhờ người nam giới trên mua hộ 30.000.000 đồng ma tuý Hêrôine. Sau khi mua được Hêrôine, C đã trả công cho người lái xe ôm 5 “phân” Heroine và mang số Heroine còn lại về cất giấu tại nơi ở. Sau đó, C dùng dao lam và cân điện tử chia nhỏ Hêrôine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời với giá 100.000 đồng và 200.000 đồng/gói. Ngày 9/10/2019 thì bị Cơ quan điều tra khám xét, thu giữ.

Ngoài ra, C còn khai trong ngày 09/10/2019, C đã bán ma tuý cho khoảng 06 (sáu) người, trong đó có Nguyễn Văn B và một người nam giới đi xe đạp điện màu đen. Tiến hành nhận dạng qua anh, C nhận dạng được B và T (người đi xe đạp điện màu đen) là người đã mua ma tuý của C ngày 9/10/2019.

Về số tiền 800.190.000 đồng, C khai vào khoảng giữa tháng 9/2019 đã vay của 2 chị gái ruột là bà Nguyễn Thị L 400.000.000 đồng và bà Nguyễn Thị Bích V 350.000.000 đồng để mua đất xây nhà và lấy vợ, số tiền còn lại do C hoạt động mua bán trái phép chất ma tuý mà có.

Nguyễn Văn B khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Quốc C về việc mua ma tuý của C vào ngày 9/10/2019. B khai: bản thân nghiện ma tuý nên B thường xuyên tìm nguồn để mua ma tuý sử dụng. Qua mối quan hệ xã hội, B quen và biết C có bán ma tuý. Khoảng 11 giờ 30 phút, B điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda BKS 29X9-XXXX đến nhà C mua 200.000 đồng Heroine để sử dụng. Khi đi đến khu vực đường Thượng Hiền, xã Hà Hồi thì bị kiểm tra, bắt giữ.

Phạm Quang T khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Quốc C về việc mua ma tuý của C vào ngày 09/10/2019, T khai: bản thân nghiện ma tuý, cách đây khoảng 01 tuần, qua mối quan hệ xã hội T biết C bán ma tuý tại nhà. Khoảng 12 giờ ngày 09/10/2019, T đi xe máy điện đến nhà C và mua của C 100.000 đồng Heroine để về sử dụng. Sau khi mua được ma tuý, C cất vào túi áo và quay về nhà. Khi đi đến khu vực đường Khê Hồi, xã Hà Hồi thì bị kiểm tra, bắt giữ.

Về người nam giới quê ở Phủ Lý, Hà Nam làm nghề lái xe ôm ở khu vực bến xe Giáp Bát, Hà Nội mua hộ C 30.000.000 đồng tiền Hêrôine, do C khai không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ.

Đi với số tiền 800.190.000 đồng, bà Nguyễn Thị L (sinh năm 19XX, trú tại xóm Q T, xã H H, huyện T T, Hà Nội) và bà Nguyễn Thị Bích V (sinh năm 19XX, trú tại số X, thị trấn T T, huyện T T, Hà Nội) khai phù hợp với lời khai của C về việc C vay tiền. Bà L và bà V không biết, không liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma tuý của C và có đơn xin lại tài sản là số tiền đã cho C vay.

Về chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu trắng có Sim số 096436XXXX và chiếc xe máy Honda màu đen BKS 29X9-XXXX thu giữ của Nguyễn Văn B, B khai chiếc điện thoại dùng liên lạc cá nhân, không dùng vào việc mua ma tuý. B mua chiếc xe máy Honda của một người đàn ông ở Thanh Trì, Hà Nội với giá 8.000.000 đồng để làm phương tiện đi lại. Quá trình sử dụng, B đã mất giấy tờ xe. Xác minh tại Phòng Cảnh sát giao thông (PC08) - Công an thành phố Hà Nội xác định chiếc xe máy Honda BKS 29X9-XXXX có số khung 61051957, số máy 61013058 đứng tên Trần Thị Thu H (địa chỉ tại số X, ngách X/Y P Đ G, phường P L, T X, Hà Nội. Xác minh tại Công an phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, Hà Nội xác định không có con người có họ tên và địa chỉ như trên. Xác minh tại Phòng Cảnh sát hình sự (PC02) - Công an thành phố Hà Nội xác định chiếc xe máy BKS 29X9-XXXX có số khung 61051957, số máy 61013058 không nằm trong hệ thống tang vật.

Về chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel màu đen có Sim số 096955XXXX thu giữ của Phạm Quang T, T khai nhận chiếc điện thoại di động dùng để liên lạc cá nhân, không dùng vào việc mua ma tuý về sử dụng. Về chiếc xe máy điện màu đen không biển kiểm soát thu giữ của Phạm Quang T, T khai chiếc xe máy điện là của vợ T tên Trần Thị T (sinh năm 19XX, trú tại thôn X Đ, xã V T, T T, Hà Nội) mua để cho con gái đi học.

Chị Trần Thị T khai ngày 19/9/2018, chị mua chiếc xe máy điện màu đen tại siêu thị xe máy, xe đạp điện Tiến Lý tại địa chỉ số 248 phố Ga, Thường Tín, Hà Nội với giá 7.700.000 đồng để cho con gái làm phương tiện đi học. Chị T không biết và không liên quan việc T đi mua ma tuý về sử dụng. Ngày 03/12/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho chị T. Bản cáo trạng số 19/CT-VKS-P1 ngày 13/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố:

- Bị cáo Nguyễn Quốc C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

- Bị cáo Nguyễn Văn B, Phạm Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Quốc C, Nguyễn Văn B, Phạm Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã quy kết. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử cho được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, nhân thân của các bị cáo cùng tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Nguyễn Quốc C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị cáo Nguyễn Văn B, Phạm Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt Nguyễn Quốc C từ 16 đến 17 năm tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt Nguyễn Văn B từ 02 đến 03 năm tù và Phạm Quang T từ 01 đến 02 năm tù.

- Tang vật: xử lý theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc C trình bày bản bào chữa cho rằng không có ý kiến về tội danh và điều luật Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo; bị cáo ban đầu mua ma túy để sử dụng song sau mới phát sinh việc bán; bị cáo không có gia đình, sống nhờ nhà anh trai, công việc không có; nhân thân có tiền án song đã được xóa theo quy định của pháp luật; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tình tiết tăng nặng. Luật sư đề nghị cho bị cáo mức thấp hơn Viện kiểm sát đề nghị để có cơ hội sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Quốc C, Nguyễn Văn B, Phạm Quang T tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ, các bản kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Ngày 07/10/2019, Nguyễn Quốc C thuê một người nam giới hiện đang làm nghề lái xe ôm tại khu vực bến xe Giáp Bát (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) mua 30.000.000 đồng Heroine mang về nhằm mục đích sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời; ngày 09/10/2019 Nguyễn Quốc C đã bán cho Nguyễn Văn B 0,145 gam Heroine với giá 200.000 đồng, bán cho Phạm Quang T 0,137 gam Heroine với giá 100.000 đồng và cất giữ tại nơi ở của C tại xóm T H, xã H H, huyện T T, Hà Nội tổng số 49,565 gam Heroine nhằm mục đích để bán kiếm lời. Hồi 12 giờ 00 ngày 09/10/2019, tại khu vực đường Thượng Hiền, xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội, Nguyễn Văn B có hành vi cất gữ trong người 0,145 gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân và hồi 13 giờ 20 ngày 9/10/2019, tại khu vực đường Khê Hồi, xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội, Phạm Quang T có hành vi cất giữ trong người 0,137 gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Tổng số ma túy Nguyễn Quốc C phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép là 49,847 gam Heroine (49,565 gam + 0,145 gam + 0,137 gam) nên thuộc trường hợp “Heroin… có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam”; Nguyễn Văn B tàng trữ trái phép 0,145 gam Heroine và Phạm Quang T tàng trữ trái phép 0,137 gam Heroine. Chính vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Văn B và Phạm Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất các chất ma túy của Nhà nước, tiếp tay cho các đối tượng mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy, gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, hoang mang lo lắng, bất bình trong nhân dân. Do vậy đối với các bị cáo cần phải xử phạt thật nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài nhằm đáp ứng yêu cầu trừng trị, răn đe, đấu tranh và phòng ngừa các loại tội phạm này nói chung.

[4] Đánh giá vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo trong vụ án đều có vai trò độc lập, bị cáo Nguyễn Quốc C thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với số lượng lớn; bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu, có nhiều tiền án đã được xóa, đã được cải tạo, giáo dục nhiều lần song không chịu tu dưỡng rèn luyện mà để kiếm tiền bất chính bị cáo đã lao vào con đường phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và là người trực tiếp bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn B, Phạm Quang T nên bị cáo phải chịu mức hình phạt cao so với bị cáo Nguyễn Văn B, Phạm Quang T. Đối với bị cáo Nguyễn Văn B, Phạm Quang T đều là người nghiện ma túy nên mua để sử dụng; bị cáo Nguyễn Văn B có nhân thân xấu đã có tiền án về ma túy được xóa án nên các bị cáo cũng phải chịu mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

- Tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Quốc C phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo nhận tội và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; nhân thân bị cáo Phạm Quang T chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Do đó cần cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: bản thân các bị cáo đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không công ăn việc làm nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Số ma túy trong 01 hộp sắt niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ điều tra Nguyễn Văn Thắng và đương sự Nguyễn Quốc C, không kiểm tra bên trong niêm phong; 01 phong bì giấy niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ điều tra Nguyễn Thành Tuyên và đương sự Nguyễn Văn B, không kiểm tra bên trong niêm phong; 01 phong bì giấy niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ điều tra Nguyễn Văn Thắng và đương sự Phạm Quang T, không kiểm tra bên trong niêm phong và 02 ví da màu đen; 01 thẻ giấy ra vào Công ty xây dựng Tiền Phong mang tên Nguyễn Văn B cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, bên trong có 01 sim, không kiểm tra được Imei, máy không sử dụng được thu giữ của Nguyễn Văn B; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen, có số Imei 355868062153672; 355868062153680 bên trong có 01 sim, máy không sử dụng được thu giữ của Phạm Quang T và 01 chứng minh nhân dân số 001073004402 mang tên Nguyễn Quốc C thu giữ của Nguyễn Quốc C là tài sản của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên trả lại.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen, bên trong có 01 sim, không kiểm tra được Imei, máy không sử dụng được; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu vàng có số Imei 358281/03/250470/0, máy không sử dụng được thu giữ của Nguyễn Quốc C và 01 xe máy nhãn hiệu Honda, số khung 61051957; số máy 61013058; màu sơn đen xanh; loại xe hai bánh từ 50- 175cm3; dung tích xi lanh 124; BKS 29x9-XXXX thu giữ của Nguyễn Văn B là tang vật các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 800.190.000 đồng thu giữ của Nguyễn Quốc C thì trong đó có số tiền 400.000.000 đồng do bà Nguyễn Thị L cho C vay; 350.000.000 đồng do bà Nguyễn Thị Bích V cho C vay nên cần trả lại cho bà L, bà V số tiền đã cho Nguyễn Quốc C vay. Đối với số tiền còn lại là 50.190.000 đồng là tiền do Nguyễn Quốc C phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo Nguyễn Văn B Phạm Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc C 16 (Mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2019.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

+ Bị cáo Nguyễn Văn B 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/10/2019 đến ngày 15/10/2019).

+ Bị cáo Phạm Quang T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/10/2019 đến ngày 15/10/2019).

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự,

- Tiêu hủy 01 hộp sắt niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ điều tra Nguyễn Văn Thắng và đương sự Nguyễn Quốc C, không kiểm tra bên trong niêm phong; 01 phong bì giấy niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ điều tra Nguyễn Thành Tuyên và đương sự Nguyễn Văn B, không kiểm tra bên trong niêm phong; 01 phong bì giấy niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ điều tra Nguyễn Văn Thắng và đương sự Phạm Quang T, không kiểm tra bên trong niêm phong; 02 ví da màu đen và 01 thẻ giấy ra vào Công ty xây dựng Tiền Phong mang tên Nguyễn Văn B.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen, bên trong có 01 sim, không kiểm tra được Imei, máy không sử dụng được; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu vàng có số Imei 358281/03/250470/0, máy không sử dụng được; 01 xe máy nhãn hiệu Honda, số khung 61051957; số máy 61013058; màu sơn đen xanh; loại xe hai bánh từ 50-175cm3; dung tích xi lanh 124; BKS 29x9-XXXX và số tiền 50.190.000 đồng (Năm mươi triệu một trăm chín mươi nghìn đồng).

- Trả lại bà Nguyễn Thị L số tiền 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng).

- Trả lại bà Nguyễn Thị Bích V số tiền 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng).

- Trả lại bị cáo Nguyễn Quốc C 01 chứng minh nhân dân số 001073004402 mang tên Nguyễn Quốc C.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn B 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, bên trong có 01 sim, không kiểm tra được Imei, máy không sử dụng được.

- Trả lại bị cáo Phạm Quang T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen, có số Imei 355868062153672; 355868062153680 bên trong có 01 sim, máy không sử dụng được.

(Xe máy hiện lưu giữ tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội theo Công văn số 1562/CTHADS-KHTH ngày 09/3/2020 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội).

(Số tiền 800.190.000 đồng hiện lưu giữ trong tài khoản của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội tại Kho bạc Nhà nước Hà Đông, thành phố Hà Nội theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện từ ngày 20/02/2020).

(Tang vật khác hiện lưu giữ tại Kho vật chứng của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng ngày 28/02/2020 giữa Công an thành phố Hà Nội với Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quốc C, Nguyễn Văn B, Phạm Quang T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về