Bản án 111/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ D, TỈNH B

BẢN ÁN 111/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 703/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Ngọc Đ; sinh năm: 1987; thường trú: thôn S, xã C, huyện E, tỉnh Đ; tạm trú: Số 257 đường Lý Thường Kiệt, khu phố T1, phường D, thị xã D, tỉnh B; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đặng Thị Hồng N, sinh năm 1993; thường trú: Khu 3, xã Đ, huyện t, tỉnh P; tạm trú: Số 9/8, khu phố Ngãi Thắng, Phường Bình Thắng, thị xã D, tỉnh B, Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 02/7/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Vũ Ngọc Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Trước khi kết hôn anh Vũ Ngọc Đ và chị Đặng Thị Hồng N có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 03 tháng thì tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện E, tỉnh Đ theo giấy chứng nhận kết hôn số 122/2013, quyển số 01/2012 ngày 21/10/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại phường B, thị xã D, tỉnh B đến năm 2017 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ đó cho đến nay, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên tranh cãi, anh Vũ Ngọc Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu ly hôn với chị Đặng Thị Hồng N.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Vũ Khánh L, sinh ngày: 07/4/2014. Sau khi ly hôn anh Vũ Ngọc Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị Đặng Thị Hồng N cấp dưỡng nuôi con.

Hiện nay, anh Vũ Ngọc Đ lao động tự do, thu nhập trung bình một tháng khoảng 5.000.000 đồng. Chị Đặng Thị Hồng N làm gì, thu nhập như thế nào anh Vũ Ngọc Đ không biết.

Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về phía bị đơn chị Đặng Thị Hồng N:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu chị Đặng Thị Hồng N có ý kiến bằng văn bản đối với các yêu cầu của anh Vũ Ngọc Đ nhưng chị Đặng Thị Hồng N không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Đặng Thị Hồng N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị Đặng Thị Hồng N vắng mặt không có lý do; đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào. Vào ngày 12/9/2019 và ngày 30/9/2019, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, chị Đặng Thị Hồng N được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất cứ tài liệu chứng cứ gì thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Ngọc Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, tuy nhiên có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 12/9/2019 và ngày 30/9/2019 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn anh Vũ Ngọc Đ có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn chị Đặng Thị Hồng N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa ngày 30/9/2019 nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh Vũ Ngọc Đ và chị Đặng Thị Hồng N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Ngọc Đ và chị Đặng Thị Hồng N là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện E, tỉnh Đ theo giấy chứng nhận kết hôn số 122/2013, quyển số 01/2012 ngày 21/10/2013 nên quan hệ hôn nhân của anh Vũ Ngọc Đ và chị Đặng Thị Hồng N là hợp pháp. Anh Vũ Ngọc Đ cho rằng trong cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc do tính tình không hợp, thường xuyên tranh cãi, đến năm 2017 vợ chồng sống ly thân. Hội đồng xét xử xét thấy, trong cuộc sống hôn nhân của anh Vũ Ngọc Đ và chị Đặng Thị Hồng N đã phát sinh mâu thuẫn từ lâu, mặc dù có trao đổi nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Đồng thời, sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập chị Đặng Thị Hồng N tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị Đặng Thị Hồng N không đến Tòa án và cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Ngọc Đ, điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn và không muốn hàn gắn, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không đạt được mục đích. Vì vậy, xét thấy không thể kéo dài cuộc sống chung của vợ chồng nên yêu cầu ly hôn của anh Vũ Ngọc Đ với chị Đặng Thị Hồng N là có cơ sở phù hợp với quy định của Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Anh Vũ Ngọc Đ và chị Đặng Thị Hồng N có 01 con chung là Vũ Khánh L, sinh ngày: 07/4/2014. Anh Vũ Ngọc Đ có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn và không yêu cầu chị Đặng Thị Hồng N cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, trong quá trình tố tụng chị Đặng Thị Hồng N không có ý kiến về vấn đề con chung, vì vậy, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận giao cháu Vũ Khánh L, sinh ngày: 07/4/2014 cho anh Vũ Ngọc Đ trực tiếp nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Vũ Ngọc Đ về việc không yêu cầu chị Đặng Thị Hồng N cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh B.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Vũ Ngọc Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Chị Đặng Thị Hồng N không phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 244, Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Vũ Ngọc Đ:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Ngọc Đ được ly hôn với chị Đặng Thị Hồng N (theo Giấy kết hôn số 122/2013, quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân xã C, huyện E, tỉnh Đ cấp ngày 21/10/2013).

- Về con chung: Chị Đặng Thị Hồng Nhung giao con chung tên Vũ Khánh L, sinh ngày: 07/4/2014 cho anh Vũ Ngọc Đ trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, chị Đặng Thị Hồng N và anh Vũ Ngọc Đ đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp chị Đặng Thị Hồng N lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc anh Vũ Ngọc Đ nuôi con thì anh Vũ Ngọc Đ có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi Nhận sự tự nguyện của anh Vũ Ngọc Đ về việc không yêu cầu chị Đặng Thị Hồng N cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Vũ Ngọc Đ phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn, được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0028938 ngày 18/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh B.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:111/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về