Bản án 111/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 111/2018/HS-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 108/2018/HSST ngày 05/9/2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2018/HSST- QĐ ngày 14/9/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân C - sinh ngày 07/4/1977 tại Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Đ, xã K, huyện T , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Viết C và bà Phan Thị N; vợ: Nguyễn Thị H; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 18/2005/HSST ngày 10/11/2005 của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Xuân C 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 18/5/2007, án phí hình sự sơ thẩm nộp tháng 02/2006; Ngày 19/6/2012 Nguyễn Xuân C bị đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục, lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 2981/QĐ- CT ngày19/6/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 19/6/2014 trở về địa phương; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/6/2018 (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Xuân H - sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn Đ, xã K, huyện T , tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 06/6/2018, Tổ công tác của Công an phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại đường Nguyễn Thái Học thuộc khu hành chính số 3, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, phát hiện Nguyễn Xuân C có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra và thu giữ trong lòng bàn tay phải của C có 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá (C khai nhận đó là gói ma túy đá C vừa mua để sử dụng cho bản thân), Tổ công tác tiến hành niêm phong gói ma túy thu giữ của C vào phong bì thư ký hiệu A1. Ngoài ra còn tạm giữ của C 01 xe máy nhãn hiệu WAZELET, màu sơn xanh biển kiểm soát 88F5- 19XX . Sau đó Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc rồi đưa Nguyễn Xuân C về trụ sở làm việc.

Tại Kết luận giám định số 759/KLGĐ ngày 12/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

“Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, TT323, Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,2189 gam (không phẩy hai một tám chín gam, không kể bao bì). Khối lượng Methamphetamine có trong 0,2189 gam mẫu là 0,1696 gam (không phẩy một sau chín sáu gam).

Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc gồm: 0,1054 gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”

Về nguồn gốc gói ma túy đá thu giữ, Nguyễn Xuân C khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 06/6/2018 C đang ở nhà thì nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng cho bản thân nên C điều khiển xe máy biển kiểm soát 88F5 - 1936 đi từ nhà đến thành phố Vĩnh Yên tìm mua ma túy. Khi đến khu vực ngõ 4, đường Trần Quốc Tuấn thuộc phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, C gặp rồi mua của người nam giới 01 gói ma túy đá với giá 350.000 đồng. Sau đó, C cầm gói ma túy rồi điều khiển xe máy đi về nhà để sử dụng, khi đến khu hành chính 3, phường Ngô Quyền thì bị Tổ công tác của Công an phường Ngô Quyền kiểm tra phát hiện bắt giữ.

Với hành vi như trên, tại Cáo trạng số 112/CT- VKSVY ngày 04/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Nguyễn Xuân C về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân C từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Xuân C không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan, đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 06/6/2018, tại đường Nguyễn Thái Học thuộc khu 3 phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Xuân C có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy để sử dụng thì bị phát hiện. Tang vật thu giữ 01 gói nylon màu trắng bên trong có chứa 0,2189g Methamphetamine có khối lượng là 0,1696g.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy…… thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm:

c)……Methamphetamine…. Có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 05 năm tù nên theo quy định tại khoản 2 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Bị cáo là người có nhân thân xấu đã 01 lần bị xét xử về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" và 01 lần bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân chứng tỏ bị cáo là đối tượng rất coi thường pháp luật không biết ăn năn hối cải để hoàn lương. Hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo bị cáo để bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mẹ đẻ bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng C hạng nhì nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp và tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đó đều hợp pháp.

[5] Đối với người nam giới bán ma túy cho Nguyễn Xuân C ngày 06/6/2018, quá trình điều tra C khai nhận qua bạn bè xã hội giới thiệu có một người nam giới khoảng 40 tuổi trong ngõ 4 đường Trần Quốc Tuấn, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên bán ma tuý nên ngày 06/6/2018 C đến tìm gặp người này và mua được 01 gói ma tuý đá của người này với giá 350.000 đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an phường Ngô Quyền về người nam giới có đặc điểm nhận dạng như lời khai của C là người đã bán ma túy cho C ngày 06/6/2018, kết quả rà soát xác minh chưa xác định được đối tượng này, do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ xử lý sau là đúng pháp luật.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,1054g ma túy và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy. Đối với xe máy nhãn hiệu WAZELET, biển kiểm soát 88F5- 19XX tạm giữ của Nguyễn Xuân C , quá trình điều tra xác định xe máy này của anh Nguyễn Xuân H (là em trai của C ), C mượn anh Hưng xe máy này để đi chơi, rồi sử dụng xe máy đi mua ma tuý về sử dụng anh Hưng không biết. Ngày 25/8/2018, Công an thành phố Vĩnh Yên đã có quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho anh Hưng. Anh Hưng đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 06/6/2018.

Về vật chứng: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 0,1054g ma túy Methamphetamine và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định.

Án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV- QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Xuân C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về