Bản án 111/2018/HSST ngày 23/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 111/2018/HSST NGÀY 23/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2018/HSST ngày 03 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Lò Văn N, sinh năm: 1981; ĐKHKTT: thôn T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi ở hiện nay: Không có nơi ở ổn định; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp ổn định; Trình độ văn hóa: 0/12. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Con ông: Lò Văn H; Con bà: Lò Thị P; Vợ: Lò Thị B, sinh năm: 1986. Con: Có 03 con (Con lớn sinh năm: 2003, con nhỏ sinh năm: 2007); Tiền án: Có 01 tiền án. Tại Bản án số 37/2012/HSST ngày 14/5/2012 của Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm, 06 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 06/9/2014 (Đã xóa án tích); Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 10/4/2018. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 10/4/2018, Lò Văn N đi bộ từ hướng Hà Đông đến khu vực Bệnh viện 09 thuộc Yên Xá, Tân Triều, huyện Thanh Trì với mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến đường Cầu Bươu, N gặp một thanh niên không quen biết đang đứng ở ven đường rủ N góp mỗi người 100.000 đồng để mua ma túy về sử dụng chung, N đồng ý. Người thanh niên đưa cho N 100.000 đồng, N góp thêm 100.000 đồng, do thanh niên không biết chỗ mua ma túy nên đứng đợi, còn N cầm 200.000 đồng đến cổng Bệnh viện 09 gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Mua xong N quay lại đưa cho người thanh niên kia 01 gói, gói còn lại N cầm ở tay phải đi vào khu đô thị cầu Bươu để sử dụng. Đến khoảng 14h45 cùng ngày Đội cảnh sát điều tra về ma túy Công an huyện Thanh Trì phát hiện N có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, thấy vậy N thả từ lòng bàn tay phải 01 giấy bên trong có chứa chất bột màu trắng, tổ công tác yêu cầu N nhặt lên. Tại chỗ N khai đây là ma túy N vừa mua để sử dụng.

Kết luận giám định số 3555/KLGĐ-PC54 ngày 19/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Ha Nôi kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói là ma túy loại Heroin, khối lương la: 0,151gam.

Quá trình xác minh, Cơ quan điều tra không xác định được đối tượng bán ma túy cho N và người thanh niên góp tiền mua ma túy chung với N.

Tại Cáo trạng số 109/CT- VKSTT ngày 04/7/2018 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì đã truy tố Lò Văn N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Thanh Trì vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 – BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo mức án từ 16 đến 22 tháng tù. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 – BLTTHS năm 2015 tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 Điều 249 – BLHS.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, các vật chứng đã thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 18/4/2018, tại khu đô thị Cầu Bươu, Yên Xá, Tân Triều, huyện Thanh Trì, Lò Văn N có hành vi cất dấu 0,151gam Heroin với mục đích sử dụng. Hành vi nêu trên của Lò Văn N đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 – BLHS năm 2015. Vì vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện. Ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 01 tiền án về tội phạm ma túy tuy đã được xóa nhưng cũng cho thấy bị cáo coi thường pháp luật, do vậy bị cáo phải chịu hình phạt tù, cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 – BLHS năm 2015 nên giảm nhẹ hình phạt một phần cho bị cáo là thỏa đáng. Do bị cáo không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 Điều 249 – BLHS là phù hợp.

 [4] Đối với đối tượng bán ma túy cho Lò Văn N và người góp tiền mua chung ma túy với N, cơ quan điều tra không xác minh được nên không có cơ sở để xử lý.

 [5] Về vật chứng: Đối với số Heroin đã thu giữ là vật phẩm cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 - BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lò Văn N 18 (Mười tám) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt quả tang 10/4/2018.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 – BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của đối tượng Lò Văn N trên mép dán phong bì, bên trong có chứa ma túy loại Heroin, khối lượng: 0,136gam. Vật chứng có tình trạng, đặc điểm như phiếu nhập kho vật chứng số 85/PNK ngày 12 tháng 4 năm 2018 tại Công an huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội.

3. Bị cáo Lò Văn N phải nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2018/HSST ngày 23/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về