Bản án 111/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 111/2018/HS-ST NGÀY 06/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 06 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 114/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tô Văn T. Tên gọi khác: Không, sinh năm 1965, tại: Xóm 1, thôn H, xã HS, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú: Xóm 1, thôn H, xã HS, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá ( học vấn) 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Tô Văn M và bà Lê Thị L; có vợ ( đã chết) và 02 con; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án số 06 /2014/HSST ngày 18-02-2014 của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn xử phạt 3 năm 9 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” . Ngày 26-12-2016 Tuấn chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 27-6-2014 chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án.

Nhân thân:

+ Ngày 30-01-2002 Công an huyện Kinh Môn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 39 về hành vi đánh bạc. T chấp hành xong khoản tiền phạt ngày 31-01- 2002.

+ Bản án số 41/2005/HSST ngày 08-3-2005 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân- thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 14-12-2006 T chấp hành xong hình phạt tù.

+ Ngày 16-02-2012 Công an huyện Kinh Môn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44 về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. T chấp hành xong khoản tiền phạt ngày 16-02- 2012.

Bị can tạm giữ từ ngày 12-7-2018 đến ngày 13-7-2018 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi – Công an tỉnh Hải Dương đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến:

1. Anh Phùng Ngọc T, sinh năm 1977

Địa chỉ: Xã HS, huyện K, tỉnh Hải Dương

2. Anh Vũ Duy K, sinh năm 1989

Địa chỉ: Xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 10-7-2018 Tô Văn T đi xe khách đến khu vực đường tàu thuộc xã D, huyện A, thành phố Hải Phòng và mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ 01gói ma túy loại Heroine với giá 200.000 đồng mục đích để sử dụng. Sau đó T đi xe khách về nhà lấy 01 phần ra sử dụng. Phần còn lại T dùng dao lam, chia thành 4 gói nhỏ, gói bằng tờ giấy bạc để trên mặt bàn uống nước trong phòng ngủ của T. Đến 7 giờ 25 phút ngày 12-7-2018 khi T đang ở nhà tại xóm 1 thôn H, xã HS, huyện K, tỉnh Hải Dương thì Tổ công tác công an huyện Kinh Môn kết hợp với công an xã HS phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại mặt bàn uống nước trong phòng ngủ của T 4 gói giấy bạc bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng ( được niêm phong kí hiệu M1).

Tại bản kết luận giám định số 471/ KLGĐ- PC 54 ngày 13-7-2018 của Phòng kĩ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột ( dạng cục) màu trắng niêm phong trong bì thư ghi thu của Tô Văn T gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,281 gam là loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục I STT9 Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 0,181 gam Heroine.

Đối với 1 dao lam T sử dụng chia ma túy, T đã vứt đi. Cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ được.

Tại bản cáo trạng số 115/CT-VKSKM ngày 18-10-2018,Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn truy tố bị cáo Tô Văn T về tội "Tàng trữ trái phépchất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

 Tại phiên tòa bị cáo Tô Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tô Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Tô Văn T từ 15-18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 12-7- 2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu cho tiêu hủy số lượng ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong bì thư số 471/KLGĐ- PC54 của Phòng kĩ thuật hình sự công an tỉnh Hải Dương;

Về án phí: Bị cáo Tô Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Tô Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, phù hợp với lời khai người làm chứng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng7 giờ 25 phút ngày 12-7-2018 tại nhà riêng của bị cáo có địa chỉ thôn H, xã HS, huyện K, tỉnh Hải Dương, bị cáo T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,281 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an huyện Kinh

Môn phối hợp cùng công an xã HS phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng nêu trên.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự an ninh trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo T là người có đủ năng lực nhận thức việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo Tô Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. 

Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn truy tố bị cáo đối với tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Năm 2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn xử phạt 3 năm 9 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ”. Ngày 26-12-2016 , T chấp hành xong hình phạt tù. Tính đến nay bị cáo chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “ tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành khẩn khai báo” . Bị cáo có bố đẻ là ông Tô Văn M được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt: Khi xem xét quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy cần đánh giá về nhân thân của bị cáo. Bị cáo T là người có nhân thân xấu. Ngày 30-01-2002 Công an huyện Kinh Môn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 39 về hành vi đánh bạc. T chấp hành xong khoản tiền phạt ngày 31-01-2002. Tại bản án số 41/2005/HSST ngày 08-3-2005 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân- thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 14-12-2006 T chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 16-02-2012 Công an  huyện Kinh Môn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44 về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. T chấp hành xong khoản tiền phạt ngày 16-02- 2012. Tại bản án số 06 /2014/HSST ngày 18-02-2014 của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn xử phạt 3 năm 9 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 26-12-2016 T chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 27-6-2014 chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án.

Bị cáo đã từng bị xử lý hành chính và hình sự về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó là bài học để rèn luyện, tu dưỡng trở thành người công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục đi vào con đường vi phạm pháp luật. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[6] Về vật chứng: Số lượng ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Trong vụ án này đối với người bán ma túy cho Tô Văn T tài liệu điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên cơ quan Công an huyện Kinh Môn không đủ căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội :

1.Tuyên bố bị cáo Tô Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Tô Văn T 18 ( mười tám ) tháng tù thời hạn tính từ ngày 12-7-2018.

2. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu cho tiêu hủy số lượng ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong bì thư số 471/PC54 của Phòng kĩ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương ( Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kinh Môn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kinh Môn với Chi cục thi hành án dân sự huyện Kinh Môn).

4. Về án phí: Bị cáo Tô Văn T phải chịu 200.000 ( hai trăm nghìn ) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về