Bản án 110/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 110/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 115/2020/HSST ngày 18 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2020/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Giàng A L - Sinh năm 1981; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản H, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 0/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Giàng A M1 (đã chết) và bà Sồng Thị S1 (đã chết); Có vợ là Vàng Thị C và có 04 con (con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2014); Tiền sự: Không, Tiền án: Ngày 10/5/2017 bị TAND huyện D, Sơn La xử phạt 24 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 21/6/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Vàng Thị C, sinh năm 1982. Trú tại: Bản H, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Hồi 21 giờ 20 ngày 20/6/2020 tổ công tác Công an xã M phối hợp với Công an xã G, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản H 2, xã M, huyện Sông Mã phát hiện bắt quả tang Giàng A L đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý. Thu giữ tại túi quần bên phải đang mặc của L có 04 gói nilon, trong đó 02 gói màu hồng và 02 gói màu xanh đều chứa chất bột màu trắng (L khai nhận là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, còn tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và 01 xe mô tô kiểu Win nhãn hiệu Detech, biển kiểm soát 26C1- 039.91 Ngày 21/6/2020 tại Công an huyện S, tỉnh Sơn La, Hội đồng bóc mở niêm phong tiến hành cân tịnh và trích mẫu giám định, kết quả: số chất bột trong 02 gói nilon màu xanh, gói thứ nhất có khối lượng là 0,07 gam; gói thứ hai là 0,06 gam; số chất bột trong 02 gói nilon màu hồng, gói thứ nhất có khối lượng là 0,05 gam; gói thứ hai là 0,06 gam đã sử dụng hết để làm mẫu gửi giám định ký hiệu lần lượt là L1, L2, L3 và L4.

Kết luận giám định số 1051 ngày 25/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1, L2, L3, L4 đều là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của các mẫu gửi giám định là L1= 0,07gam; L2= 0,06gam; L3= 0,05gam; L4= 0,06gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,24gam; Loại Heroine”.

Quá trình điều tra bị cáo Giàng A L khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 10/6/2020 L một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26C1-039.91 đem theo số tiền 200.000VNĐ đi từ nhà đến thị trấn S, đến khoảng 10 giờ cùng ngày thì L điều khiển xe mô tô đi vào xã K, S mục đích là tìm mua ma túy để sử dụng. Khi vào đến cầu bản N, xã K thì L gặp một đôi vợ chồng người dân tộc Mông không quen biết đang dừng xe đứng ở lề đường, L hỏi mua ma tuý và được người đàn ông bán cho 04 gói Heroine được gói trong các túi nilon (gồm 02 gói nilon màu xanh và 02 gói nilon màu hồng) với giá 200.000VNĐ. Mua được ma túy L đem về và đã trích ra ở mỗi gói một ít Heroine để sử dụng. Đến khoảng 21 giờ ngày 20/6/2020 L mang theo số Heroine còn lại điều khiển xe mô tô đi từ nhà ra bản H 2, xã M thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 116/CT-VKSSM ngày 16 tháng 9 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Giàng A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS xử phạt Giàng A L từ 22 - 28 tháng tù. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng các phong bì niêm phong và các mảnh nilon, trả lại xe mô tô cho người liên quan, trả lại điện thoại di động cho bị cáo. Miễn án phí hình sự và tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật và không có đề nghị gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 21 giờ 30 phút, ngày 20/6/2020 đối với Giàng A L vì có hành vi cất giấu 04 gói ni lon có chứa chất bột liên kết màu trắng, L khai nhận là Heroine.

- Vật chứng bị thu giữ là 04 gói ni lon có chứa chất bột liên kết màu trắng; Kết luận giám định số 1051 ngày 25/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy: “…Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,24 gam; Loại Heroine”.

- Lời khai bị cáo về việc ngày 10/6/2020 có đến khu vực cầu bản N, xã K mua được 04 gói Heroine mục đích để sử dụng, sau khi mua được đã trích ra một ít để sử dụng. Ngày 20/6/2020 mang theo Heroine trong người đi từ nhà ra bản H 2, xã K thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 20/6/2020 bị cáo bị phát hiện và bắt giữ vì có hành vi tàng trữ 0,24 gam Heroine mục đích để sử dụng.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

 [3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h “tái phạm” khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn không có tài sản gì có giá trị, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai chỉ gặp ngoài đường, không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, cùng mảnh nilon và số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là những vật không có giá trị sử dụng và vật nhà nước cấm tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 xe mô tô là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, khi bị cáo sử dụng xe đi mua ma tuý vợ bị cáo không biết nên cần trả lại cho vợ bị cáo; Đối với 01 điện thoại di động là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

 - Tuyên bố bị cáo Giàng A L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Giàng A L 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Các điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 0,05 gam Heroine, 01 vỏ phong bì gửi giám định đã bóc mở, được đựng trong 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong. Trên giấy dán niêm phong có mã số 000691.

+ 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 02 mảnh nilon màu xanh, 02 mảnh nilon màu hồng được đựng trong 01 phong bì thư do bưu điện Việt Nam phát hành, đã niêm phong. Trên giấy dán niêm phong có mã số 27868.

- Trả lại cho người liên quan: 01 xe mô tô kiểu dáng Win hiệu Detech, màu xanh đen, BKS 26C1- 039.91.

- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đen.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/9/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/9/2020); Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết đúng quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về